Tiền đời vua Lê Hiển Tông (1740 - 1786)
Năm 1740, chúa Trịnh Doanh lập con trai vua Lê Thuần Tông là Lê Duy Diêu lên ngôi (tức vua Lê Hiển Tông), đặt niên hiệu là Cảnh Hưng. Lê Hiển Tông là ông vua ở ngôi lâu nhất trong lịch sử phong kiến nước ta. Trong 47 năm trị vì đất nước, vua Lê Hiển Tông chỉ dùng một niên hiệu Cảnh Hưng (1740 - 1786) và cho đúc rất nhiều loại tiền đồng khác nhau, đa dạng về chủng loại, phong phú về kiểu chữ. Tiền Cảnh Hưng gồm 2 chủng loại chính là Cảnh Hưng thông bảo và Cảnh Hưng tạp bảo.
a. Tiền Cảnh Hưng thông bảo
Ảnh 1.8.7. Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳, kiểu Lệ thư, lưng tiền trơn, đk 25-25,5mm
Ảnh 1.8.8. Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳, kiểu Triện thư, lưng tiền trơn, đk 24,5mm
Ảnh 1.8.9. Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳, kiểu Tạp thư, lưng tiền trơn, đk 25mm
Ảnh 1.8.10.Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳, kiểu Chân thư, lưng tiền trơn, đk 26mm-26,5mm
Từ năm thứ nhất đến năm thứ 23 của niên hiệu Cảnh Hưng (1740 - 1762) có rất nhiều đợt đúc tiền Cảnh Hưng thông bảo. Mới đầu, tiền được đúc ở Kinh đô Thăng Long, sau đó nhiều địa phương đều cho mở xưởng đúc tiền. Ngoài tiền quan chú (do chính quyền địa phương đúc) còn có tiền do tư nhân đúc. Có thể nói “khắp nơi có lò đúc tiền” công - tư bất phân, thật - giả khó biết. Niên hiệu Cảnh Hưng năm 14 (1753), tháng 7, chúa Trịnh Doanh phải ra lệnh phế bỏ các xưởng đúc tiền ở địa phương, chỉ giữ lại hai xưởng đúc tiền là Nhật Chiêu và Cầu Giền ở Thăng Long, để chính quyền Trung ương quản lý, phòng việc lạm phát tiền Cảnh Hưng. Tuy vậy, chính sách này có tác dụng rất hạn chế, việc đúc tiền vẫn tràn lan không thể kiểm soát nổi. Do đó, ngày nay, chúng ta phát hiện được rất nhiều loại tiền Cảnh Hưng thông bảo, loại to, loại nhỏ, loại tiền lưng trơn, loại tiền lưng có chữ hoặc hoa văn; có tiền bằng đồng, có tiền bằng đồng pha kẽm, tiền bằng chì; thư pháp cũng rất phức tạp, một chữ đúc theo nhiều cách, một đồng tiền dùng nhiều kiểu chữ.
- Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳, lưng tiền trơn Đường kính 24mm - 26,5mm, dày 1,2 - 1,5mm, nặng 3,5 - 4,1gr.
Ảnh 1.8.11. Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc chữ “Nhất”- 一 (1740),đk 24,5mm
Ảnh 1.8.12. Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc chữ “Tân Dậu”- 辛酉(1741), đk 24,2mm
Ảnh 1.8.13. Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc chữ “Tam” - 三 (1742), đk 25-25,5mm
Ảnh 1.8.14. Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc chữ “Trung” - 中 ( Trung ương), đk 24mm
Ảnh 1.8.16.Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc chữ “Bắc” - 北 ( Kinh Bắc), đk 24mm
Ảnh 1.8.17. Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc chữ “Công”- 工 (Bộ Công), đk 22-25,5mm
Ảnh 1.8.18.Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc chữ “Bạch”- 帛 (Tơ lụa), đk 23,5-24mm
Ảnh 1.8.19.Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc chữ “Tây” - 西 (Sơn Tây), đk 24,2mm
Ảnh 1.8.20. Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc chữ “Thái”- 太 (Thái Nguyên), đk 23,8-24,5mm
Ảnh 1.8.21. Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc chữ “Sơn Tây” - 山西, đk 24,0-24,1mm
Ảnh 1.8.22. Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳 kiểu Chân thư, lưng tiền đúc chữ “Sơn Nam”- 山南, đk 23-23,5 mm
Ảnh 1.8.23. Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳, kiểu Chân thư, lưng tiền có hai chữ (Kiểu chữ Triện- Chưa đọc được), đk 25mm
- Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳, lưng tiền đúc chữ
Chữ đúc ở lưng tiền thường là để kỷ niệm năm đúc hoặc nơi đúc. Loại tiền kỷ niệm năm đúc gồm loại ghi năm Can Chi và loại ghi số. Loại ghi năm Can Chi hiện đã thấy Canh Thân 庚申 (1740), Tân Dậu 辛酉(1741), Nhâm Tuất 壬戌 (1742). Loại ghi số, có số Nhất 一 chỉ năm niên hiệu Cảnh Hưng thứ nhất (1740), số Tam 三- chỉ năm thứ ba của niên hiệu Cảnh Hưng (1742). Tiền Cảnh Hưng thông bảo, lưng tiền ghi nơi đúc gồm có các chữ như “Sơn Tây” 山西, “Sơn Nam” 山南, “Kinh” 京, “Công” 工, “Tây” 西, “Thái” 太, “Bắc” 北, “Trung” 中, “Bạch” 帛,… Tiền có chữ ghi địa danh này có thể là do nhu cầu kiểm soát, phòng trừ lạm phát. Năm Cảnh Hưng thứ 21 (1760), vua Lê Hiển Tông buộc phải thừa nhận sự tồn tại của các xưởng đúc tiền ở địa phương. Sơn Tây là địa phương đầu tiên bỏ lệnh cấm, các địa phương khác, dần dần, theo đó hoạt động trở lại. Từ năm Cảnh Hưng 21 (1760) đến năm 23 (1762), các xưởng đúc tiền địa phương được công khai đúc tiền, nhưng lưng tiền phải ghi địa danh và có một chức quan chuyên làm công việc đốc thúc, giám sát. Do đó, dù có khác nhau, nhưng tiền đúc ra đều tương đối quy phạm. Đường kính từ 24 - 25mm, dày 1 - 1,5mm, nặng 3 - 4,2gr.
Đón đọc Kỳ V: Tiền đời vua Lê Hiển Tông (1740 - 1786) phần tiếp theo
Nguồn: Tác phẩm: ''Lịch sử đồng tiền Việt Nam'' của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Biên tập: Mạnh - Thắng | Đồ họa:Văn Lâm
Lâm.TV