Cụ Trần Đình Huân một thời giao lưu với các lái Quảng Nam. Ảnh: Văn Chương
Thênh thang qua Quảng Ngãi
Năm 1924, Báo Tiếng Dân đăng vụ chìm tàu vận tải Trentinlan trên đường từ Đà Nẵng sang Thái Lan khiến thuyền trưởng và nhiều mộ phu, trong đó có người Huế chết đuối. Trong thời gian đó, báo cũng đăng tin tức liên quan tới dân ghe kêu than việc thuế ghe lên gấp đôi. Đây là 2 câu chuyện cho thấy, nghề biển trong quá khứ đầy tai ương, hiểm nguy, rồi còn phải đối mặt với sưu cao, thuế nặng.
Có thể hiểu về nỗi nhọc nhằn và nguy hiểm của nghề biển thời đó qua việc phân tích bài “Vè các lái” (là bài vè của những người lái ghe thuyền chuyên chở hàng hóa bằng đường biển, đường sông, hay những ngư dân đánh bắt cá trên những chiếc ghe bầu). Thời đó, trước khi khởi hành thì các lái đều đằng hắng giọng, tâm tưởng hướng ra biển và con đường hành trình dọc bờ gặp biết bao nhiêu gành, núi, bãi cạn, nơi hay có lốc xoáy, sau đó ngâm nga câu vè có những câu từ chỉ đường đi giống như định vị ngày nay: “Ghe bầu các lái đi buôn/ Đêm khuya ngồi buồn, kể chuyện đi buôn/ Bắt từ Gia Định kể ra/ Anh em thuận hòa ngoài Huế kể vô”.
Cụ Trần Đình Huân, sinh năm 1933, một các lái chạy ghe bầu (thuyền bầu), quê ở làng chài thuộc xã Đức Lợi, tỉnh Quảng Ngãi kể lại, thời trước từng đi cùng chuyến với ghe bầu của các ông Huỳnh Phàn, Lương Văn Xiêm ở làng chài Nguyễn Chỉ, nay thuộc xã Tam Giang. Trên đường đi, ông Huân thường gặp rất nhiều ghe buồm đánh cá gần bờ của ngư dân xuôi ngược trên biển, theo lịch đánh bắt thời đó là 4 giờ sáng có gió bờ nên bắt đầu đi biển.
Thời đó, các thuyền mang theo một cây lách rất dài và được bó như một cây bánh tét. Mỗi nơi bó cây lách bằng một loại vật liệu khác nhau để làm đuốc đi biển. Ở Quảng Nam thì bó cây được bẻ trên núi, còn Quảng Ngãi là xứ mía đường nên bó xác mía, lõi bên trong là dấu rái thường sử dụng để trét thúng, nên đuốc bốc mùi khét khét. Cả đêm mới đốt hết một cây lách. Khoảng năm 1970, mỗi ghe sắm 2 chiếc đèn măng sông treo trên mũi ghe. Ánh lửa phập phù trên biển là tín hiệu duy nhất để giúp thuyền bầu tránh né ghe nhỏ.
Hỏi giờ gió Nam
Khi vừa đi qua hết vùng biển Quảng Nam, các lái ghe bầu đọc câu vè: “Thái Cần Châu Ổ bao xa/ Phía trong cây quýt mà ngoài đà tổng binh/ Tổng binh có mũi ăn quanh/ Nằm gần mũi ván ăn quanh Vũng Tàu”. Khi đi qua đoạn đường này, các lái cứ dựa theo câu vè này để quan sát cảnh vật bên mạn phải của ghe bầu để cho thuyền đi. Các lái phải luôn biết cách quan sát sự đối xứng giữa ngọn núi, bãi cát, những cây cổ thụ nhô lên ở các điểm cao để biết tốc độ, vị trí, ước lượng thời gian sẽ thả neo ở các chợ.
Khi đi qua mỗi vùng biển thì lại có những đặc điểm gió khác nhau, vì vậy, các lái cứ thấy ghe đánh cá của ngư dân gần bờ thì cho thuyền cập mạn để hỏi thăm rằng, tháng này mấy giờ gió Nam thổi mạnh? Mỗi khi gặp ghe đi qua và gặp dân chài Vũng Tô, Suối Bún ở Bình Định (nay là tỉnh Lâm Đồng), các lái lại cảm động vì người dân nơi đây thể hiện lòng tốt bằng cách thông báo rất cụ thể giờ gió tới. Cụ Trần Đình Huân kể, con người ở đây ăn nói rất lễ phép và họ tỏ ra là người thiệt bụng, sẵn sàng chia sẻ. Vì vậy, câu vè có nhắc: “Vũng Tô, Suối Bún mà thiệt tình thương ôi”.
Những chiếc ghe bầu ở miền Nam đi ra, nếu gặp các lái ở miền Trung tại các chợ thì sẽ được nhắc chừng: “Ngó qua bên xóm Trường An/ Chứ ngó xuống hòn Chụp ta sẽ buông khơi/ Trong vịnh chứ ngoài đời núi đất giăng giăng...”. Tức là khi đi qua hòn Chụp (tức Hòn Khô ở phường Quy Nhơn) thì né ra, sau đó vòng vô lại và có những đoạn xuôi gió đi hoài hết gần nửa ngày, cứ thẳng lái mà đi.
Khi thuyền bầu đi qua vùng biển Quảng Ngãi, các lái Quảng Nam không quá lo lắng vì thuyền đi dọc bờ, ngoài mũi đèn Ba Làng An thì không có nhiều nguy hiểm, vì vậy, các lái đọc câu vè: “Buông lèo lấy lái cho mau/ Châu Me, Lò Rượu là thiệt nơi bán hàng”.
Các lái phải ghé vào bãi biển Châu Me và chèo thúng vô bờ để tiếp thêm chất đốt. Châu Me là thôn nằm gần cuối tỉnh Quảng Ngãi trước khi sang vùng biển nhiều hiểm nguy thuộc tỉnh Gia Lai hiện nay. Chợ ở Châu Me là những dãy hàng dài người bán củi, than, củ, gạo, rau, thịt rừng các loại. Khi vô chợ, các lái lại tiếp tục hỏi về tình hình gió Nam vì đoạn đường tiếp tục hơi khó đi và có thể gặp nguy hiểm.
Trước khi đi vào vùng biển thường xuất hiện gió ở tỉnh Gia Lai hiện nay, các lái thường ghé vào Dinh Bà ở bờ Đông của cửa biển Sa Huỳnh (Quảng Ngãi) để thắp hương, dâng lễ vật, cầu xin sự bình an. Nhiều các lái quàng vào bức tượng bà một sợi dây chuyền vàng và dây chuyền đeo thành một lớp dày trên cổ tượng gỗ.
Nỗi lo gió lò
Trong bài vè có nhắc tới “gió lò” ở khu vực gần đèo Hải Vân (Chỗ này Bãi Chuối, Hang Dơi/ Xưa nay cửa bể là nơi gió lò). Các lái từ miền Nam ra Kinh thành Huế thường chú ý tới gió lò ở khu vực này. Còn ghe bầu đi vô thì tới vùng biển tỉnh Bình Định cũ, các lái tiếp tục nhắc đến gió lò: “Nam lò ai được gần gần”. Vì gió Nam thổi vào 2 vách núi, sau đó dội ra và tạo thành luồng xoáy.
Khi qua khu vực có gió lò, các lái luôn căng thẳng. Thế rồi mọi người nhìn dãy núi với âm thanh vù vù của gió và kể chuyện truyền thuyết rằng, ngày xưa có ông Dậm đi qua vùng này, vì tức giận quá nên ông đạp chân mạnh xuống đất và cụm núi trũng xuống, biển thành một eo núi, từ đó gió Nam cứ thổi vào và khiến ghe buồm đi đánh cá, ghe bầu chở hàng bị hút về phía núi. Sau nhiều lần bị chìm ghe, các lái đã rút kinh nghiệm cho ghe đi vào thật gần mom núi, nếu bị gió lò thì mọi sự trắc trở cũng nhẹ đi.
Các lão ngư ở làng Duồng (nay là thôn Hiệp Đức) thuộc xã Phan Rí Cửa, tỉnh Bình Thuận cũ (nay là tỉnh Lâm Đồng) vẫn có người nhớ lại những đoạn vè mà các lái ở Quảng Nam một thời hay đọc: “Ngó vô thuyền đậu nghênh ngang/ Gành Son, Trại Lưới tiếng vang làng nghề/ Cửa Duồng nay đã gần kề/ Lạch kia Phan Rí ghe nghề xôn xao...”.
Lão ngư dân Trần Đình Chơi ở phường Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng hồi tưởng, trước năm 1975, cứ tới dịp Tết Nguyên đán là bài “Vè các lái” lại được đưa lên sân khấu biểu diễn để nhớ cảnh cha ông đi thuyền bầu từ miền Trung ra Bắc, vô Nam, người nghe rất xúc động.
Lê Văn Chương