TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế.
Chia sẻ tại Diễn đàn Thị trường tín dụng và những vấn đề kinh tế vĩ mô sáng 24/12, TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách của Thủ tướng cho biết, dự phóng tăng trưởng GDP Việt Nam giai đoạn 2026 - 2030 ở mức 9-10%/năm.
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng nêu trên, nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước nhu cầu vốn cực kỳ lớn. Trong giai đoạn 2026-2030, với kịch bản tăng trưởng 10%, ước tính tổng vốn đầu tư toàn xã hội cần huy động sẽ tương đương khoảng 39% GDP (khoảng 260 tỷ USD).
Theo ông Lực, hiện nay, nền kinh tế vẫn dựa quá lớn vào vốn ngân hàng. Trong giai đoạn vừa qua, tín dụng chiếm hơn 50% các kênh dẫn vốn cho nền kinh tế, trong khi các kênh khác như chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp... còn nhỏ bé. Điều này dẫn tới tỷ lệ sử dụng đòn bẩy tài chính của nền kinh tế Việt Nam rất lớn, đồng nghĩa với việc rủi ro tăng cao.
Theo tính toán của chuyên gia này, đến cuối năm nay, tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam ước đạt 147% và nếu tín dụng tiếp tục tăng 16-17% giai đoạn tới thì đến năm 2030, tỷ lệ tín dụng/GDP sẽ đạt tới 180-185% GDP, thuộc nhóm quốc gia có tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao nhất thế giới.
Tại Mỹ, tỷ lệ tín dụng/GDP là 198%. Tuy nhiên, con số này bao gồm cả cho vay của các tổ chức tài chính phi ngân hàng, nếu tính riêng khối ngân hàng thương mại, tỷ lệ tín dụng/GDP tại Mỹ chỉ khoảng 80% GDP.
Để giải quyết vấn đề này, theo các chuyên gia, câu chuyện đặt ra với Việt Nam không chỉ dừng lại ở câu chuyện đa dạng hóa kênh huy động vốn, giảm phụ thuộc vào lĩnh vực ngân hàng mà quan trọng là phải đổi mới mô hình phát triển.
"Chúng ta không thể mãi đi theo mô hình tăng trưởng dựa trên khối lượng vốn lớn như Trung Quốc hay Hàn Quốc thời kỳ trước. Việt Nam cần hướng tới sự hiệu quả của đồng vốn. Thay vì huy động bằng mọi giá, chúng ta phải tập trung vào việc phân bổ và sử dụng nguồn lực sao cho tối ưu nhất”, TS. Lực đề nghị.
"Chỉ ra thực trạng hiệu quả sử dụng đồng vốn của Việt Nam còn thấp, thể hiện ở vòng quay tiền rất chậm (chỉ khoảng 0,6 - 0,7 lần), chuyên gia cho rằng, rất nhiều tiền đang bị "đọng" lại đâu đó trong hệ thống và chưa luân chuyển mạnh vào sản xuất kinh doanh. Đây là lý do lạm phát không bùng phát, nhưng cũng là dấu hiệu cho thấy hiệu quả sử dụng vốn cần phải xem xét lại” – vị chuyên gia này phân tích.
Chỉ ra thực trạng thanh khoản hệ thống đang mỏng dần do huy động đang bị "hụt" 2 triệu tỷ đồng so với tín dụng, TS. Cấn Văn Lực đề nghị cần phải nhanh chóng phát triển thị trường vốn, đặc biệt là thị trường trái phiếu doanh nghiệp và cổ phiếu để dẫn vốn trung và dài hạn. Cùng với đó là khai thông các kênh dẫn vốn khác như: khai thác các nguồn tài chính bền vững, tài chính xanh, nâng hạng thị trường chứng khoán, xây dựng trung tâm tài chính quốc tế, phát triển thị trường tài sản số…
Chung quan điểm thận trọng với việc mở rộng tín dụng bằng mọi giá, TS. Lê Xuân Sang - Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới phân tích, hiệu suất tín dụng/GDP của Việt Nam đã giảm đáng kể trong suốt 40 năm qua. Nguyên nhân cốt lõi nằm ở hiện tượng rò rỉ tín dụng sang các kênh phi sản xuất, khiến hiệu quả sử dụng vốn suy giảm và rủi ro hệ thống gia tăng.
Theo TS. Lê Xuân Sang, trong 5 - 10 năm tới, Việt Nam cần tập trung đa dạng hóa nguồn vốn thông qua thị trường chứng khoán, phát triển các tổ chức xếp hạng tín nhiệm và định hướng dòng vốn vào những lĩnh vực có lợi thế so sánh cao như năng lượng tái tạo, thương mại điện tử và hệ sinh thái ươm tạo công nghệ. Những lĩnh vực này có khả năng nâng cao năng suất mà ít tạo áp lực lạm phát, qua đó giảm phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng.
Các chuyên gia cho rằng, tăng trưởng tín dụng giai đoạn 2026 - 2030 không thể tiếp tục chạy theo quy mô, mà buộc phải chuyển sang chiều sâu, gắn với tái cấu trúc nguồn vốn, nâng cao hiệu quả phân bổ và kiểm soát rủi ro hệ thống. Khi tín dụng được đặt đúng vai trò trong một cấu trúc tài chính cân bằng hơn, với thị trường vốn và đổi mới sáng tạo làm trụ cột, tăng trưởng kinh tế Việt Nam sẽ đạt được theo các mục tiêu đề ra.
T.L