Tình làng

Tình làng
3 giờ trướcBài gốc
Làng tôi ở mom sông, có dòng Thiên Đức cuộn chảy lưu giữ những trầm tích lịch sử, văn hóa nghìn năm. Làng là cội nguồn văn hóa, nơi nương tựa, thắp lên niềm vui cuộc sống, rèn dưỡng tâm hồn những con người biết thương yêu, đùm bọc, sẻ chia.
Đôi bờ sông Như Nguyệt. Ảnh: Trương Xuân Thắng.
Cổng làng rêu phong đứng đó chứng kiến bao hạnh phúc và khổ đau, sự ra đi và trở lại của những cuộc đời. Vệt thời gian còn in hằn nhưng cảnh vật cứ đổi thay, biến thiên theo thời cuộc. Bà tôi kể, đình làng mình to nhất vùng. Hội làng mở vào tháng Hai sau mùa gieo cấy là nơi tụ hội của dân hàng tổng. Đình bị tàn phá trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Sau hòa bình nhiều năm mới được dựng lại trên nền cũ, gần đây lại được công nhận Di tích văn hóa cùng với sự đóng góp của dân làng mới bề thế như hôm nay.
Làng khiến ta phải nhớ, phải thương, hòa mình vào đó như một tiếng gà xao xác giữa trưa hè, như tảo tần mưa nắng, thu vén lo toan của bà, của mẹ; như tiếng trống ngũ liên dập dồn, thúc giục mùa tháng Bảy hàn đê chống lũ...
Làng ta nặng nghĩa sâu tình, cái ranh giới giữa hai nhà chỉ có hàng râm bụt, bờ tre dung dị mà gắn bó “tối lửa tắt đèn”. Chẳng thế mà bà tôi lên thăm con, cháu nhiều nhất chỉ đến ngày thứ ba là nhắc nhỏm đòi về chỉ để hái những lá trầu không bắt đầu he vàng, nhai trầu cùng các cụ già mỗi sáng; để hỏi thăm bác Cả nhà bên đã đỡ cái lưng đau, hay hái cho bà bạn nắm lá vối bánh tẻ hãm uống mỗi ngày…
Lặng nghe gió thổi từ dòng sông, gió lang thang qua bãi mía, bờ dâu, đùa trên tán lá dọc con đường làng quanh co khi thì thầm, lúc hồ hởi nhắc nhớ những câu chuyện xưa cũ ở làng. Vào buổi sáng tiếng gà ban mai vang vọng trong hơi sương nhẹ. Trên con đường làng, lũ trẻ tung tẩy đến trường, người lớn xuống đồng hoặc đi chợ, người già thì lo cơm nước cho con và các cháu của mình. Chiều về, những dải khói vương vấn mái bếp gọi mọi người quây quần chuẩn bị bữa cơm chiều ấm áp, bình yên. Đâu đây ngoài bến sông vọng về giòn tan tiếng cười thôn nữ vờn theo xôn xao sóng nước, xô đi những vất vả nhọc nhằn. Sau những đổi thay của thời cuộc, vùng đất Kinh Bắc khoác lên mình diện mạo tươi sáng hơn, trẻ trung hơn. Những con đường mới mở, những khu dân cư khang trang, những công trình đang dần thành hình... tất cả như những nhịp thở mới khơi dậy niềm tin và khát vọng đổi đời của bao người dân quê.
Vệt thời gian cứ hun hút, bất tận như sóng lớp sau xô lớp trước. Khái niệm về làng cũng không còn bó hẹp sau những lũy tre bởi sự hội nhập, sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp, thương mại và công nghệ. Làng quê rồi đây sẽ đổi mới to đẹp, khang trang, hiện đại hơn, các thiết chế văn hóa đầy đủ hơn, chất lượng cuộc sống Nhân dân ngày càng cao từ những quyết sách hợp lòng dân của Đảng, Nhà nước. Người dân quê tôi vẫn vậy, mộc mạc, nghĩa tình nhưng luôn rộng lòng đón nhận cái mới. Họ hiểu rằng sự phát triển nào cũng đánh đổi bằng nỗ lực và sẻ chia; rằng mỗi bước chuyển mình của quê hương đều chở theo ước mơ chung của cả cộng đồng. Trong lòng họ, vừa có chút lưu luyến nếp xưa, vừa có một niềm tin vào ngày mai, rằng mảnh đất này sẽ tiếp tục đổi thay, nhưng vẫn giữ được cái hồn quê ngàn đời bền bỉ.
Và trong ký ức mỗi người, làng tôi vẫn nép mình bên dòng sông xòa bóng chở che, ôm ấp những phận đời,những gương mặt thân quen có người đã về với đất, có những người đã già, có người đang lớn, và có những người đã lớn... Bờ rào râm bụt, cây duối già, lũy tre sau làng, cả con đường lát gạch nghiêng - kỷ vật của những người con gái làng đi lấy chồng thiên hạ, và con đường quanh co dẫn vào ngôi cổ tự, những cánh đồng bảng lảng tiếng chuông chiều, đàn trâu thong thả gặm cỏ triền đê... hình như vẫn còn đâu đón.
Tản văn của Vũ Thắng
Nguồn Bắc Ninh : https://baobacninhtv.vn/tinh-lang-postid433626.bbg