"Nếu một ngày nào đó con không còn trên thế gian này, xin mẹ đừng để nỗi đau kéo dài. Con mong được hỏa táng và rải tro giữa núi rừng. Mẹ có thể đốt hết quần áo của con để khép lại một đoạn đời. Nhưng xin mẹ giữ lại chiếc áo blouse trắng, đó là cả ước mơ bác sĩ chưa thể chạm đến của con.
Con cảm ơn và xin lỗi mẹ thật nhiều!”
Lá thư được gấp lại, đặt cạnh chiếc áo blouse. Không ngày gửi, không người nhận, nó nằm lặng bên tiếng nhỏ giọt đều đặn của chai dịch truyền.
Những ngày mắc ung thư, tôi thấy mình rã dần ra thành từng mảnh, ghép lại bằng xương, bằng da, bằng hóa chất và chùm tia xạ trị 66Gy chiếu thẳng. Tôi là Nguyễn Thúy Loan (hiện tại 29 tuổi) đang sinh sống ở Hà Hội. Năm 25 tuổi, tôi được chẩn đoán mắc ung thư vòm họng giai đoạn ba.
Tự chuẩn bị ảnh thờ
Tháng 7/2021, tôi nhớ mình cùng hàng trăm sinh viên Đại học Y Hà Nội khác trong lớp đồ bảo hộ kín mít, lặng lẽ ngồi trên chuyến xe hướng về Bắc Giang để tham gia chống dịch Covid-19. Ở cổ tôi, một nốt hạch bằng đầu ngón tay đang dần lớn lên, như trực chờ xé da xé thịt để ra ngoài. Song những ngày ấy, người ta quên ăn, quên uống và quên cả những cơn đau.
Đến khi vừa cởi được bộ quần áo chống dịch, gương mặt vừa vơi đi những vết hằn của khẩu trang, cũng là lúc tôi giật mình nhận ra kích thước hạch đã bằng một quả chanh. Tôi tiếp tục ghi danh, đăng ký vào miền Nam góp sức tham gia chống dịch. Và kế hoạch ấy không bao giờ diễn ra bởi chẩn đoán ung thư vòm họng giai đoạn 3 chen ngang trong một lần đi khám sức khỏe trước ngày lên đường.
Từ một sinh viên y khoa đầy hoài bão, tôi được chẩn đoán mắc ung thư giai đoạn 3.
Là sinh viên y, tôi biết quá rõ những con số về tỷ lệ sống còn, về biến chứng và tiên lượng của ung thư. Chính vì hiểu, nỗi sợ trong tôi lại càng dày đặc. Tôi từng được dạy rằng ung thư vòm họng có khả năng hồi phục cao, nguy cơ tái phát thấp. Nhưng vào khoảnh khắc bước vào điều trị, những con số hay tiên lượng chẳng còn nhiều ý nghĩa.
Điều khiến tôi ám ảnh hơn cả là chuỗi ngày điều trị mệt mỏi phía sau. Nhắm mắt lại, tôi vẫn nhớ như in những tiếng nôn khan và đôi mắt khép hờ đầy mệt mỏi của những bệnh nhân ung thư mà tôi nhìn thấy trong đợt đi lâm sàng từ 3 tháng trước.
Ở tuổi 25, tôi từng bước sắp xếp cái kết của cuộc đời mình. Tôi khoác lên người bộ quần áo xinh xắn nhất, chụp sẵn một bức ảnh thờ. Việc học cũng đã được sắp xếp êm xuôi, tôi gọi điện thoại về cho gia đình.
Anh trai hay tin em gái mắc bệnh, vội bắt xe khách từ Thái Bình đến Hà Nội ở bên tôi. 15 ngày phép năm của anh vừa hết cũng là lúc dịch trực chờ ập đến Hà Nội lần 4. Ngày anh về, tôi mải miết nhìn theo bóng lưng anh. Thời khắc ấy, tôi nhận ra trong cuộc chiến này mình đã đơn độc.
“Nghiện” thuốc giảm đau
“Thầy muốn em đi đường dài nên mới chọn những loại thuốc mạnh, em cố gắng vượt qua giai đoạn này nhé”, bác sĩ điều trị, cũng là thầy giáo của tôi, nhẹ nhàng nói. Có một điều tôi không được thầy cảnh báo trước, rằng thứ thuốc ấy không chỉ giết chết tế bào ung thư mà còn dần bóp nghẹt cả phần tích cực trong tôi.
Chỉ hai giờ sau mũi hóa chất đầu tiên, tôi gục xuống nôn thốc trong chiếc thau mà các cô điều dưỡng đã chuẩn bị sẵn. Khi không còn đồ ăn trong dạ dày, thứ dịch mật màu xanh pha lẫn bọt trắng bắt đầu trào ra. Cảm giác rờn rợn bám víu cổ họng tôi cả tuần sau đó. Và chỉ sau mũi hóa chất đầu tiên, tóc tôi bắt đầu rơi từng lọn.
Da tôi bỏng rát sau hàng chục lần xạ trị.
Và những cơn đau tôi chịu đựng không phải là vô nghĩa. Hơn 2 tháng ròng, hạch đáp ứng hóa chất tốt, đã thu nhỏ kích thước. Thế nhưng, đó chưa phải là điểm kết thúc. Giai đoạn tiếp theo, phác đồ điều trị của tôi kết hợp cả hóa trị và xạ trị. Thời điểm ấy, hầu hết cả ngày, tôi dành thời gian để nghĩ về cái chết.
Da tôi bắt đầu bỏng rát, đầy vết tím bầm, như cách căn bệnh ung thư đánh dấu những ai đã từng được nằm vào cỗ máy xạ trị ầm ĩ. Như những người xạ trị vùng đầu - mặt - cổ khác, niêm mạc cổ gần như lở loét, bong tróc, không thể ăn. Sự sống của tôi ký thác vào những bình đạm, dịch truyền treo lơ lửng phía đầu giường.
Tóc tôi rụng ngay sau đợt hóa trị đầu tiên.
Cái suy nghĩ ấy muốn kết thúc cuộc đời chỉ gián đoạn khi bác sĩ mang đến một ống xi lanh nhỏ, bên trong chứa morphin (thuốc giảm đau) để làm dịu cơn đau. Cảm giác lâng lâng ấy biến tôi thành một “con nghiện”, bởi chỉ khi không có những cơn đau, tôi mới thấy mình đang thật sự sống.
Mỗi khi khá hơn đôi chút, tôi lại cầm bút viết di thư. Hàng chục lá viết xong rồi vò nát, ném vào thùng rác. Trong những dòng chữ ấy, tôi chỉ nói về những điều còn dang dở, về tình cảm và những điều chưa kịp trao đi.
Những ngày dằn co với bệnh tật, buổi sáng tôi nằm trong cỗ máy, lặng lẽ cầu xin một điều gì đó để mình còn được sống, buổi chiều lại oằn mình trong những cơn đau khi dòng hóa chất chảy tràn khắp cơ thể. Tôi cảm giác mình bị tách đôi, một phần cố bám lấy sự sống, phần còn lại dần rã ra cùng thuốc và cơn đau
Trưởng thành từ những cơn đau
Tiếng bước chân vội vã vang khắp hành lang, thuốc khử trùng được phun liên tục, tạo thành làn khói mỏng giữa không trung. Người ta vừa phát hiện một bệnh nhân trong khoa dương tính với Covid, cả bệnh viện lập tức náo loạn. Mọi hoạt động gần như ngừng lại và chúng tôi được thông báo nghỉ hai tuần.
Tôi như suy sụp. Không phải vì nỗi sợ bị lây bệnh, mà vì thêm hai tuần cách ly khiến sự cô đơn trong tôi ngày một dày thêm. Mỗi lần đi xạ trị, chiếc xe chuyên biệt lại đưa tôi đi và về trên một lộ trình duy nhất, một bên là khu xạ trị, một bên là phòng bệnh. Bạn bè đến thăm chỉ có thể nhìn qua lớp cửa kính, qua những bộ đồ bảo hộ lùn nhùn và vô số bước kiểm tra gắt gao, tôi thấy nghẹt thở.
Sau bệnh, tôi tiếp tục chương trình học và trở thành bác sĩ da liễu.
Tôi biết, những ngày cách ly thế này phần nào che chở tôi khỏi cơn hỗn mang ngoài kia. Nhưng vào những lúc yếu lòng nhất, điều tôi cần lại chỉ là một vòng tay để nương tựa.
Đếm đủ 35 chuyến xe đi về như thế, tôi được phép xuất viện, khối u lúc này cũng đã gần như được triệt tiêu hoàn toàn. Không còn những cơn đau hay trận buồn nôn, tôi như được sống một cuộc đời thứ hai. Đúng chín tháng sau ngày viết đơn bảo lưu, tôi trở lại giảng đường.
Trở lại với hành lang quen thuộc mùi thuốc sát trùng, với những buổi lâm sàng còn vương mùi hóa chất, với những sáng lững thững bước vào lớp khi cơ thể vẫn còn mệt nhoài. Tôi chọn da liễu, một chuyên ngành đã yêu từ lâu, cũng là lựa chọn vừa sức với tình trạng sức khỏe của mình.
Căn bệnh ung thư giúp tôi sống chậm lại.
Năm ngoái, tôi gác lại công việc bác sĩ da liễu để theo đuổi lĩnh vực dinh dưỡng. Tôi muốn đem trải nghiệm của mình để tiếp thêm sức mạnh cho những người khác. Tôi vẫn đọc, vẫn học, vẫn giữ nền tảng y khoa, chỉ khác là mang theo tâm thế của một bệnh nhân từng đi qua cơn bão.
Mỗi lần tái khám, khi bác sĩ ngắm nhìn phim chụp rồi khẽ bảo “ổn”, tôi nghe trong lòng vang lên một tiếng thở phào. Tôi bắt đầu học cách ghi nhớ những gì căn bệnh này đã dạy cho mình: sự trưởng thành, trân trọng hơi thở, thay vì day dứt mãi về những gì nó rắp tâm cướp đi từ tôi, như những gì nhà văn Nguyễn Ngọc Tư từng viết: “Người ta chỉ lớn lên sau những lần bị cuộc đời làm cho bật khóc”.
Kỳ Duyên