Đường Nguyễn Huệ, phường Sài Gòn TP. Hồ Chí Minh có mức giá cao nhất 687,2 triệu đồng/m2 - Ảnh minh họa.
Chiều 26/12, tại Kỳ họp thứ 7 (kỳ họp chuyên đề), HĐND TP. Hồ Chí Minh khóa X, nhiệm kỳ 2021–2026 đã thông qua nhiều nghị quyết quan trọng. Trong đó, đáng chú ý là Nghị quyết ban hành quy định bảng giá đất lần đầu áp dụng trên địa bàn Thành phố, chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2026.
Việc ban hành bảng giá đất mới không chỉ là một động thái kỹ thuật mà còn mang ý nghĩa chiến lược trong bối cảnh TP. Hồ Chí Minh đã hoàn tất việc sáp nhập với tỉnh Bình Dương và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Trước đây, mỗi địa phương áp dụng một bảng giá đất riêng, dẫn đến tình trạng chồng chéo và thiếu nhất quán. Bảng giá đất mới được kỳ vọng sẽ khắc phục những bất cập này, đồng thời tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác quản lý đất đai.
Theo nghị quyết của HĐND TP. Hồ Chí Minh, bảng giá đất mới sẽ áp dụng cho 12 trường hợp theo quy định của Luật Đất đai 2024, và mở rộng thêm 3 trường hợp quan trọng theo Nghị quyết 254/2025/QH15. Những trường hợp này bao gồm tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất khi nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; tính giá trị quyền sử dụng đất khi cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; và làm căn cứ tính tiền bồi thường khi nhà nước thu hồi đất.
Bảng giá đất mới được chia thành các khu vực theo địa giới hành chính trước sáp nhập, nhằm bảo đảm tính kế thừa và phù hợp với đặc điểm phát triển của từng địa bàn.
Đối với đất ở, khu vực TP. Hồ Chí Minh cũ có mức giá cao nhất 687,2 triệu đồng/m2 tại các tuyến đường trung tâm như Đồng Khởi, Nguyễn Huệ, Lê Lợi. Trong khi đó, khu vực tỉnh Bình Dương cũ có giá cao nhất 89,6 triệu đồng/m2, và khu vực tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cũ có giá cao nhất gần 150 triệu đồng/m2.
Đối với đất thương mại - dịch vụ, giá cao nhất tại khu vực TP. Hồ Chí Minh cũ là 563,6 triệu đồng/m2, trong khi khu vực tỉnh Bình Dương cũ và tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cũ lần lượt là 53,8 triệu đồng/m2 và hơn 89 triệu đồng/m2. Giá đất sản xuất – kinh doanh cũng được điều chỉnh tương tự, với mức giá cao nhất tại TP. Hồ Chí Minh cũ là hơn 481 triệu đồng/m2.
Đối với đất nông nghiệp, bảng giá chia thành 4 khu vực. Giá đất trồng cây hằng năm tại khu vực I cao nhất 1,2 triệu đồng/m2 và thấp nhất 770.000 đồng/m2; khu vực II cao nhất 1 triệu đồng/m2; khu vực III cao nhất 700.000 đồng/m2; khu vực IV cao nhất 480.000 đồng/m2. Giá đất trồng cây lâu năm cũng được xác định theo từng khu vực, với mức cao nhất 1,44 triệu đồng/m2 tại khu vực I và thấp nhất 370.000 đồng/m2 tại khu vực IV.
Việc ban hành bảng giá đất mới không chỉ nhằm mục đích quản lý mà còn hướng tới việc cải thiện môi trường đầu tư và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố. Đồng thời, bảng giá đất là căn cứ để tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, xác định giá khởi điểm để đấu giá quyền sử dụng đất, và tính thuế, phí, lệ phí liên quan đến việc sử dụng đất. Điều này sẽ tạo ra sự minh bạch và công bằng trong các giao dịch liên quan đến đất đai, đồng thời hỗ trợ cho công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.
Cuộc họp thẩm tra của Ban Kinh tế - Ngân sách HĐND TP. Hồ Chí Minh đã thống nhất rằng việc ban hành bảng giá đất mới là cần thiết để khắc phục những hạn chế của các bảng giá hiện hành. Dự thảo nghị quyết đã được chuẩn bị kỹ lưỡng, lấy ý kiến và tiếp thu từ các cơ quan, đơn vị liên quan, đảm bảo tính khả thi và phù hợp với thực tiễn.
Bảng giá đất mới tại TP. Hồ Chí Minh không chỉ là một công cụ quản lý mà còn là một bước tiến quan trọng trong việc xây dựng một môi trường đầu tư minh bạch và hiệu quả. Với sự đồng thuận cao từ các cơ quan chức năng và sự chuẩn bị kỹ lưỡng, bảng giá đất mới hứa hẹn sẽ góp phần ổn định thị trường bất động sản và thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững cho Thành phố trong giai đoạn tới.
Hồng Vinh