Ông Thanh ngồi trên bờ sông ngắm nghía những cụm lục bình tím loang triền quê. Bóng chiều với bóng người tư lự thẫm vào, hắt xuống nước như một dấu chấm than. Dòng sông là người bạn vỗ về những cơn đau đớn của ông khi vết thương cũ tái phát. Hai bờ lau sậy nghiêng mình trong làn gió hiu hiu, tiếng vạc từ xa vọng lại như khúc thánh ca của đồng quê.
Thượng tá Thanh chợt thấy tiếng đạn rít, ngực áo anh cháy khét lẹt, bóng A Lềnh vụt biến mất, anh cũng kịp thu vào mắt màu trời xanh giàn giụa. Trước khi ngã xuống, trong anh thấp thoáng nụ cười của An. Thằng bé lên lớp 6, vẫn chờ bố về dạy bơi.
Khi tỉnh dậy, Thanh nghe thấy tiếng máy thở tít tít, quanh mình dây nhợ chằng chịt, qua khung cửa sổ phòng hậu phẫu, ánh mặt trời xôn xao. Anh mơ hồ thấy mảnh kim loại vẫn nằm yên trong ngực. Thanh đã bước qua cõi mịt mù, chạm vào gương mặt lo âu của vợ, cái cằm nhọn lởm chởm râu của Xênh - người bạn thân thiết.
Minh họa: Bùi Quang Đức
Thanh chính thức nhận quyết định nghỉ hưu, hưởng chế độ hưu và thương binh. Ngôi nhà nhỏ ven sông đón ông trở về. Con sông bên hông nhà vẫn chậm trôi thầm thĩ về câu chuyện thời gian. Những con sóng xưa, người cha già dạy con trai cưỡi băng băng, cha đã về cõi thiên thu, tiếp dấu chân cha, mỗi khi chiều vắt ngang ngọn cây cau bên hiên nhà, ông Thanh lại cùng con trai giỡn sóng. Ngực cậu trai đã vồng lên những hoài bão tuổi trẻ, trong khi lưng ông Thanh đổ bóng thời gian. Sông muôn đời vẫn bao dung mà keo kiết với con người. Khi buồn, ra sông, nước chìm trôi muộn phiền; lúc vui, về sông, sóng nhấn nút bản đàn muôn điệu, nước ôm trọn hai cơ thể đàn ông trong hân hoan. Đời người cứ thế, lớp cha trước, lớp con sau, viết tiếp câu chuyện trần ai. Sau bão tố, phù sa ấm và nồng nàn tình yêu để sự sống bật mầm.
*
Cô Mua rạch mình sinh ra A Lềnh giữa cơn tối đất tối trời của bản Pía. Đứa trẻ không hề cất tiếng khóc, dây rốn quấn chặt tay trái, bàn tay phải, ngón út chọc vào miệng đứa bé. Bà đỡ phải vỗ mấy cái vào mông, đứa bé mới khóc. Thầy mo bảo, đứa bé sinh ra như vậy khi lớn lên sẽ dữ.
Khi trời còn ngủ say sưa như sau một trận rượu ngô ngọt thỉu, mái tranh sương đầm đìa, Mua đã bắt đầu một ngày mới. Trong gùi, A Lềnh ngủ tít. Mua vốn hay lam hay làm, hơn thế, Xênh chồng cô không có điều kiện gần gia đình, miệt mài với công việc ở Đội Điều tra rừng. Những phương trời xa lạ và màu xanh bạt ngàn của rừng luôn hấp dẫn anh.
A Lềnh lớn nhanh như cây bương trên rừng. Nó chạy thi cùng hoẵng, leo cây tranh với sóc và lầm lì như con gấu. Chẳng bao giờ Mua đoán được ý nghĩ của nó. Nó theo mẹ đi khắp rừng, có hôm chui vào bụi mây hái quả, bị mây cào xước mặt; có lúc tìm hỏi han già làng về những câu chuyện ma trơi; nhưng khi bị mắng, A Lềnh cộc cằn giật búi tóc mẹ xổ tung rồi chạy theo con suối cạn. Tối tối, cô ôm chặt lấy đứa con ngỗ nghịch, kể cho nó nghe truyện Nhà và Gạo.
- Con chim có tổ, như con người có nhà, con ạ.
- Nhà mình bé tí, mai sau con xây nhà to như nhà của thầy mo cho mẹ.
- Gạo là ngọc thực, có gạo là có sự sống, con ạ.
- Thầy mo hứa sẽ cho con phương thuốc bí truyền, nếu có đau như bị lợn lòi húc, chỉ cần uống thuốc này là hết, ngậm nó trong miệng, mẹ có thể đi qua hai cánh rừng mà không sợ gì hết.
Nghe con nói, Mua sợ hãi bịt mồm nó lại.
- Đừng con, nói thế Trời bắt tội đấy, con phải tránh xa thuốc ấy ra.
A Lềnh hét toáng lên:
- Mẹ không biết rồi, thầy mo bảo có thuốc đó, làm nương cả ngày không biết mệt, con trai uống vào sẽ nhanh như con ngựa, khỏe như con gấu, con gái uống vào má ửng như trái đào, nhảy múa như con công.
Trái tim người mẹ rộng dài và ấm áp nhưng luôn có những linh cảm định mệnh. Xênh chồng cô là một người tử tế, bạn thân của anh là Thanh - người chiến sĩ Công an, khắc tinh của tội phạm ma túy. Trong một cuộc trà với Thanh, Xênh đã than thở với bạn về đứa con trai ương bướng của mình. Thanh đã vài lần gặp gỡ A Lềnh, khuyên nhủ. Và rồi, A Lềnh đã trở thành kẻ tiếp tay tuồn ma túy vào bản Pía từ lúc nào không hay.
Thanh được phân công phụ trách chuyên án ma túy R 25. Rừng im lặng đầy chết chóc, nghe thấy cả tiếng lá thở, Thanh núp dưới gốc cây lớn bên bờ suối, mặc kiến bò nhôn nhốt khắp người cũng không dám cựa quậy. Bên kia bờ suối, một bóng đen kín mít chỉ hở hai con mắt, đang xoáy vào Thanh. Thanh chĩa súng, đanh thép.
- Anh đã bị bao vây.
Nghi phạm giật phăng khẩu trang. Thanh choáng váng, A Lềnh, con trai Xênh - người bạn thân - đang đứng trước mặt anh. Thanh đau đớn đưa nòng súng hướng về phía A Lềnh, viên đạn xé gió găm vào tay trái A Lềnh. Hắn rống lên, tay phải hướng về ngực Thanh bóp cò giận dữ, rồi nhanh chóng biến mất. Bên kia bờ suối, Thanh ôm ngực gục xuống. Đồng đội của anh bắt được hết nhóm đối tượng xấu, nhưng A Lềnh - một mắt xích trong đường dây ma túy xuyên biên giới - đã trốn thoát.
Mùa mưa ở núi dài và buồn. Chuyến đi công tác lần này, Thanh định tranh thủ ghé thăm Xênh, người bạn thân từ thuở hàn vi, nhân dịp Xênh đang cắt phép chăm vợ ở cữ. Nhưng, khi xe đang bon bon, bất thình lình phía trước, một gốc cây đổ ụp xuống, kính vỡ tung tóe, phần cây bị thương đập vào đầu Thanh. Anh bất tỉnh, được đồng đội đưa vào bệnh viện. Tối ấy Xênh ở nhà lòng bồn chồn, quá hẹn mà không thấy Thanh, anh bốc máy gọi. Khi nghe tin dữ, anh vội vàng đến bệnh viện nơi Thanh đang nằm.
- Anh Thanh mất máu, hiện tại bệnh viện không còn đủ.
- May quá, tôi cùng nhóm máu với anh ấy.
Linh tính của Xênh đã cứu mạng Thanh. Những giọt máu của Xênh truyền cho Thanh sự sống. Trong Thanh chảy hai dòng máu.
Phát súng của Thanh bắn vào máu thịt của chính Xênh, bắn vào đồng đội của anh sự bất ngờ và không ít băn khoăn. Bởi ma túy là một món hàng siêu lợi nhuận, bọn tội phạm luôn tìm cách mua chuộc Công an bằng một cái giá ngất ngưởng. Vợ chồng Thanh gia cảnh lại thanh đạm, nên thay vì phải bắn vào chân để tội phạm không có cơ hội chạy trốn, anh lại nhằm vào cánh tay trái của hắn?
Sau khi ra viện, tóc Thanh bạc như sương núi mùa thu. Vết đau da thịt và tình thâm trong tim giày vò anh. Dù vẫn được đơn vị cho nghỉ phép, nhưng anh đã nhất quyết đi gặp chỉ huy. Vì trái tim người lính đã thôi thúc anh không thể sống một nửa. Anh ngày thường hiên ngang là thế, nay cúi đầu, đôi mắt đỏ sọng, đôi bàn tay thu dưới vạt áo, như có cả trái núi đè xuống đôi vai vuông vức của anh.
- Dạ, báo cáo chỉ huy, tôi sang gặp anh, xin thú nhận mọi tội lỗi của tôi trong chuyên án R 25, tôi đã để tội phạm lọt lưới.
- Cậu nói sao? Tôi không hiểu, tôi tưởng đó chỉ do anh sơ sểnh hoặc bị một cơn đau bất chợt đốn ngã.
- Tôi đã phụ lòng tin của đơn vị. Bởi, thủ phạm mà tôi phải nổ súng lại là con trai người bạn thân của tôi, người đã cứu mạng tôi một lần.
- Cậu nói lại, tôi nghe chưa rõ.
Anh bật dậy, đôi tay giơ lên bất lực.
- Tôi đã cố tình bắn sai mục tiêu để tạo cơ hội cho nghi phạm đào tẩu.
*
Nhận nhiệm vụ mới, An không khỏi lo âu. Bản Pía là một điểm nóng của xã, cơn bão ma túy đã phá tan bao hạnh phúc trong mỗi nếp nhà. Ông Thanh trầm ngâm bên ấm trà trong sương sớm. Hương trà bảng lảng, con sông trước mặt óng ánh như một dải lụa bạc.
- Con đi phen này mọi thứ đều không dễ dàng, xa nhà chân phải vững, cái đầu phải tỉnh táo, con ạ!
An ngước lên di ảnh ông nội, thấy ông nở nụ cười hiền từ. Anh thắp nén hương, thành kính thi lễ. Ông Thanh ôm choàng vai con vỗ vỗ. Nắng rọi vào, bóng con đã cao hơn bóng bố. Bà Mai không nói, lặng lẽ đứng dựa vào một bên cổng, cho đến khi chiếc xe của An rẽ ra đường lớn. Là hậu phương của người lính, đã bao lần bà đứng như thế, vững vàng, mong manh; đầy lo âu và hy vọng. Bà là vai dựa, đức tin cho những người đàn ông đủ dũng khí ra đi và trở về.
Con đường vắt qua sườn núi chênh vênh, lưng buổi sáng mới thấy mặt trời. Người ta ăn trưa lúc buổi chiều, và kết thúc bữa tối khi đêm mịt mùng. Dấn bước là đá, đá ngập ngừng điền vào mây trắng những vết chém thời gian dang dở. Đá trong veo suối. Đá lạnh lùng núi. Nắng chấp chới la đà ngang thung như xiêm y thiếu nữ phút lơ đễnh. Rừng xanh rợn, khóa bí hiểm bằng những tiếng vượn hú.
Bản Pía hầu như chỉ còn người già, phụ nữ và trẻ nhỏ. Nhiều đàn ông bị ma túy dắt vào tù, hoặc chết bệnh, hoặc là con nghiện. An thấy cô bé mặt chưa đi hết tuổi chơi đã phải làm mẹ. Ôm con giữa trưa nắng mà mắt như phủ sương, chồng cô vừa chết vì sốc thuốc. Căn nhà xiêu vẹo, gió rừng thổi xuyên rách cả tháng ngày.
Khi rừng còn nấp trong lớp sương mỏng như khói bếp, mây vắt ngang ngọn cây săng lẻ, dãy núi trước mặt nở nụ cười hiền, Nguyên đeo gùi vào rừng hái nấm, sau một tuần làm việc bận rộn. Chân vừa đến bờ suối, bỗng cô khựng lại. Dưới gốc thông mốc thếch, con ngựa bạch quỳ hai chân trước cạnh một thân người nằm nghiêng, vai áo đã khô những vết máu. Cô vội ghé xuống, đó là một chàng trai, ngực vẫn phập phồng nhưng yếu ớt. Mặt anh trắng bệch, môi khô nứt, vết thương bả vai sâu hoắm. Nguyên vội vã lấy trong gùi gói lá mịn, rịt vào chỗ vết thương. Rồi vặn nắp chai nước xuống, khẽ dốc vào miệng anh. Con ngựa thấy chủ cử động, nó hí khe khẽ mừng rỡ. Cuộc gặp gỡ như là định mệnh ấy, không chỉ cứu An mà còn xe duyên cho họ.
*
Đơn vị thi hành án kỉ luật với Thanh. Quân hàm thượng tá bị giáng. Đồng đội ai cũng bất ngờ và thương cảm. Thanh tiếc nuối những tháng ngày đẹp đẽ của mình: bao đêm cắm bản theo dõi thủ phạm, những vụ đột kích hang ổ ma túy hốt trọn cả băng đảng tội đồ; có lần, kẻ thủ ác điên cuồng nã súng, đổi lại, lập chiến công lớn, anh được nhận bằng khen của cấp trên và được tuyên dương dưới cờ... Chỉ vì nương tay với A Lềnh mà anh phải chịu hậu quả. Nhưng, thương bạn, ai thương những người dân đã bị ma túy hủy hoại cuộc đời? Công tội phân minh, Thanh vui vẻ nhận án kỷ luật, dù cái giá anh phải trả quá đắt.
Chiếc xe Minsk nhả cột khói đen sì, chở An theo con đường ngoằn ngoèo ven bờ suối, đến nhà ông Xênh. Nhưng, đây là lần thứ ba An phải quay xe, vì chủ nhân cắm một cành lá xanh bên ngoài, từ chối tiếp khách lạ.
An đến nhà ông Xênh lần này, lòng tràn đầy hy vọng. Từ trong nhà, quan sát người khách lạ qua khe cửa, đôi mắt ông Xênh thấy một nét thân quen của Thanh trên cái dáng cao gầy và khuôn mặt thư sinh của An. Nhưng, Xênh vẫn chưa chấp nhận được phát đạn của bạn dành cho con trai mình. Một mặt, ông cũng không khỏi áy náy về đòn thù của A Lềnh dành cho Thanh. Một bên là con trai, bên kia là bạn, ông băn khoăn trong sự lựa chọn.
An vẫn kiên trì, chờ một ngày ông Xênh bỏ thói quen cắm cành lá xanh trước cửa. Lần này, ông Xênh hấp tấp ra mở cửa. Bước qua cửa, anh quan sát rất nhanh trong nhà, trên tường là bức ảnh lớn treo trang trọng: hai chàng trai trẻ nở nụ cười tươi rói. Trong phòng khách nhà An, bố anh cũng treo bức ảnh giống hệt. Bỗng, ông Xênh ngẩng lên, nhìn sâu vào khuôn mặt An, Thanh, là Thanh của thời trẻ tráng.
- Anh là con trai ông Thanh?
- Vâng, thưa bác Xênh.
An xua đi sự gượng gạo bằng thái độ gần gũi.
- Thằng A Lềnh không về nhà, từ dạo nhận viên đạn của bố cháu. Vợ chồng bác đã nhất quyết sửa lại ngôi nhà này của các cụ để sống nốt những năm tháng cuối đời mà không ở ngôi nhà gỗ của nó nữa.
- Bác cố gắng liên lạc với A Lềnh, thuyết phục anh ta ra đầu thú sẽ được nhận khoan hồng của pháp luật.
Ông Xênh rút cái điện thoại trong túi quần, mở cho An xem. Lịch sử những cuộc gọi nhỡ cho A Lềnh kéo dài bất tận, tin nhắn gửi đi nhưng không được hắn đọc bao giờ. Từ trong gian buồng nhỏ, có tiếng người húng hắng ho. Tiếng ho không kịp tràn ra ngoài, mà mới lưng chừng đã nuốt vào trong như một sự chịu đựng. Từ ngày A Lềnh bỏ trốn, bà Mua càng phiền muộn sinh bệnh. An biếu bà Mua chút tiền mua thuốc và dặn dò ông Xênh, nếu biết tin tức gì của con trai thì báo ngay cho anh.
*
Gió bốc từng vốc cát mà ném vào đám người đông đúc trong phiên chợ vùng cao giữa cái lạnh như cắt vào da thịt. Một người dáng nhanh nhẹn, dong dỏng, quấn khăn len kín mặt, áo măng tô dựng cổ kín mít đang đứng ở hàng bán cao ngựa. Khói bốc nghi ngút phủ lên từng mái lán tre, những chiếc nồi lớn sôi lục bục, mùi xương ngựa ngào ngậy. Người đứng bếp đôi tay lực lưỡng cầm thìa gỗ khuấy đều hỗn hợp sánh màu hổ phách. Dù hơi bốc như khói, anh ta vẫn đeo một chiếc khẩu trang lớn che kín từ cằm lên sát gò má, đôi lông mày rậm che tối nhưng ánh mắt đảo nhanh những tia sắc lạnh. Người đứng cạnh anh ta cất giọng rè rè.
- Cao ngựa bổ dương, bồi bổ gân cốt, ai cần thì đến đây!
Người mặc áo măng tô cùng hai người nữa, rất nhanh, áp sát người đứng bếp và nói:
- Cho tôi hai lạng loại đặc biệt.
Một tay thu trong áo, miệng kề vào gã bịt mặt, anh cất giọng nhỏ nhưng đanh gọn.
- A Lềnh, anh đã bị bắt.
Gã đứng bếp thấy một họng súng bất ngờ gí sát sườn mình. Gã buông thìa, khẽ giơ tay tỏ vẻ khuất phục, rồi nhanh như cắt, gã chạy vọt ra phía con ngựa ô đang bồn chồn chờ chủ ở lán phía đối diện. Gã quất ngựa truy phong. Người mặc áo măng tô cũng ngay lập tức giật cương con ngựa bạch phi nước đại đuổi theo hướng ngựa ô, cát tung mù mịt. Ra khỏi chợ, con đường đá lởm chởm bắt luôn vào vách đèo cao trập trùng, bóng ngựa đen lao như tên bắn. Gió rít bên tai, chẳng mấy chốc ngựa bạch theo kịp ngựa đen. Theo sau cặp ngựa đối màu là hai con ngựa hung, người cầm cương liên tục ra roi.
Đôi ngựa một đen một trắng, lao vút vào cánh rừng rậm rạp, mất hút. Cuộc rượt đuổi mạo hiểm, gay cấn. Bỗng, từ sau bụi cây, một loạt súng nổ vang - đạn găm xé không gian, bắn lên vạt lá và mảnh đất phía trước. Người áo măng tô rạp mình tránh đạn, đồng thời rút súng nhả từng phát đạn, tiếng nổ đanh thép xé tan màn tịch mịch của núi rừng. Đến viên đạn thứ ba, anh cảm thấy một luồng đau chói lên bả vai, ngựa bạch co hai chân trước, hí từng tràng man dại. Anh gục đầu xuống, nắm chặt cương rồi tuột xuống đất ẩm, thế giới như câm lặng.
*
Đêm, sương tràn tứ phía, như một tấm khăn rộng bị gió đùa, đổ đầy mịt mờ vào hốc mắt. Sương túa ra trước mũi xe, chào đón Nguyên - vị khách mà lồng ngực đã chật đầy file buồn.
Chợ trong phiên chính đông như nêm! Thổ cẩm chen lẫn váy áo người Kinh phấp phới. Xôi đựng đầy trong thùng gỗ, dẻo và đa sắc. Người bán nói tiếng Kinh rất sõi với người Kinh rồi quay sang líu lô giọng của núi. Rất nhiều cái nia lớn óng ánh bồ hóng được chất lên những đầu ngựa hun khói. Mắt ngựa gác bếp nhìn người mua không con ngươi.
Đường lên bản quanh co. Núi dựng đứng. Núi chảy máu. Đâu đó những chú trâu gặm mưa thong dong trên đỉnh núi giương mắt nhìn Nguyên như nhìn con vật lạ. Cô gặp ở quán phở rỗng chú chó mắt buồn như viên đá từ núi cao trong cơn biến thiên rơi tõm xuống lòng suối, câm lặng. Chó thèm người, sán vào, phả đầy tay Nguyên một vốc hoang vu.
Tốt nghiệp đại học đúng vào ngày bố mẹ ra tòa. Lễ ra trường của Nguyên chỉ có đứa bạn thân đến tặng hoa. Dù cuộc chia tay của bố mẹ, Nguyên đã biết trước qua những trận cãi vã nảy lửa, nhưng cô không nghĩ ngày đó đến sớm vậy. Bố đã xin cho cô vào dạy ở một trường cấp ba có tiếng giữa Thủ đô, nhưng cơn giận dỗi bồng bột đã khiến Nguyên tự nguyện lên miền núi dạy học tại Trường Nội trú Lủ Chang. Đón cô là hai dãy phòng học xi măng nứt vỡ nép mình dưới chân núi Khuê. Ở đây người ta làm bạn với nắng, gió, mưa và cát bụi. Đến trong bát cơm cũng có sự hiện diện của cát. Chứng kiến đời sống thiếu thốn đến sơ sài, nhưng con người vẫn hồn nhiên kiên trì bám trụ, cô thấy nỗi buồn của mình thật nhỏ bé.
Lễ khai giảng chưa bao giờ đơn sơ đến thế, lá cờ đã sờn được thầy hiệu trưởng trịnh trọng kéo lên, cả trường cùng hát Quốc ca. Nguyên đặt tay lên lồng ngực, cô thấy trái tim mình như muốn nhảy ra.
Nguyên thấy một cô bé ngồi thu lu dưới lớp, nhìn Nguyên bằng cặp mắt buồn như hai giọt lệ vỡ. Cô đi xuống, con bé bèn lùi sát vào góc, bàn tay di di trên mặt bàn. Lũ trẻ xì xào.
- Bố nó bán ma túy về bản, bao nhiêu người nghiện, mẹ nó đi theo người đàn ông khác.
- A Lềnh, bố nó xấu lắm, rủ bố em vào núi mãi không về, nhà còn hai mẹ con thôi.
Từ ngày thoát chết trong trận huyết chiến éo le, A Lềnh không về nhà. Con Sánh vợ nó xưa kia đẹp nhất vùng, vì khi đó A Lềnh rất nhiều tiền mới cưới được. Sánh lười làm, hểnh háo ăn trắng mặc trơn nên càng trẻ đẹp. Cái giống đàn bà càng rờ rỡ, bung nở da thịt quyến rũ thì càng khó giữ mình khi vắng chồng. Sánh mang trả bố mẹ chồng hai đứa con.
A Lềnh đứng như hóa đá giữa bóng đêm rười rượi. Ánh trăng xối vào thân hình gió sương của hắn những vệt sáng, phơi trải niềm day dứt. Những oan hồn từ cái chết trắng lôi hắn xuống vực rỉa thịt, moi gan. Hắn ao ước có một miệng vực nuốt chửng mình.
- Bố mẹ ơi, con là con nai lạc đường, muốn về quỳ gối mà dập đầu trước bác Thanh, trước bố mẹ.
Bao đêm như thế, con thú vô năng đã lén trở về đứng từ xa. Đêm nào cũng vậy, tưởng như chỉ có rừng biết, gió biết và hắn biết mình đã chết thêm một lần. Nhưng, A Lềnh không biết rằng cách chỗ hắn đứng không xa, nhất cử nhất động của hắn đều thu vào tầm ngắm của trinh sát.
Đã hai ngày rồi, Mi không đến trường, sốt ruột, trưa ấy, khi sương lạnh vẫn còn giăng đặc quánh như khói bếp đọng giữa khe núi, Nguyên đã khoác áo mưa, chân đất bấm đất. Ngôi nhà gỗ nho nhỏ nép dưới gốc thông già, buồn tênh như cội cây lạc núi.
Nguyên gõ cửa.
- Mi ơi, cho cô Nguyên vào nhà với.
Đáp lại chỉ là tiếng gió hun hút, cô đẩy cửa bước vào. Trong ánh sáng nhá nhem của ngày đông giá, con bé ngồi thu lu nơi góc nhà, đôi mắt đỏ hoe, mái tóc rối bời như cỏ dại sau bão. Nguyên bỗng nghe thấy như tiếng động lạ trong gian buồng tối, cô chạy vào, thấy ông Xênh nằm sõng soài trên nền đất lạnh từ bao giờ, môi tím tái, chân giật giật, một tay ôm ngực, tay kia quờ quạng.
Nguyên vội rút điện thoại, gọi An.
Khi An tới, thì Nguyên đang sơ cứu cho ông Xênh. Ngực ông phập phồng, hơi thở yếu dần. An dịu giọng.
- Cháu là An đây... A Lềnh sẽ về, bác không được bỏ cuộc...
- Thanh ơi, hãy tha thứ cho tao... tao đã hiểu lầm mày...
Ông Xênh đã xuôi tay vào cõi thiên thu, mùa đông như lạnh và tàn úa hơn, mái nhà hun hút dưới chân đèo. Trận mưa ném bụi tro của trời, rơi trên mái thời gian. Căn nhà trống tràn ngập màu thê lương. Cái chết của ông Xênh không hẳn là theo luật định sinh lão bệnh tử của người già đã sống đủ một đời mà là của người bị những bi kịch cuộc đời dằn vặt đến cạn kiệt hơi thở.
Đêm ấy, A Lềnh về. Hắn không còn đề phòng, nấp nom bên ngoài như mấy lần trước mà chạy thẳng vào nhà, ôm linh cữu bố khóc như một đứa trẻ. An và đồng đội mật phục ở bên ngoài. Anh một mặt bố trí người canh không cho hắn trốn thoát, mặt khác, cho hắn cơ hội thi lễ trước người cha tội nghiệp, nghĩa tử là nghĩa tận.
Khi dân bản đưa ông lão ra đồng, cũng là lúc tổ công tác của An ập vào nhà, A Lềnh ngây dại giữa cái chiếu cũ, hai tay giơ lên cao, tự nguyện đầu hàng vô điều kiện.
Truy vết theo lời khai của A Lềnh, đường dây ma túy xuyên biên giới bị đưa ra ánh sáng. Tất cả những trạm trung chuyển ma túy, ngụy trang bằng lều canh ngô, dưới hầm rượu ngô, trong kho hàng đều bị khám xét, phá dỡ. Đại ca của A Lềnh là Tâm sát thủ bị sa lưới sau ba đêm mật phục.
Hôm nay trời xanh lắm, bé Mi đã trở lại lớp, dù hai mắt vẫn hoe đỏ, nhưng không còn cúi đầu. Mi lí nhí xin Nguyên cho vào lớp. Thằng Súa thấy Mi bèn chạy ra tận cửa đón nó vào, nhường cho Mi bàn đầu tiên. Nguyên nhìn con bé, mắt cô như cười.
Tròn trăm ngày ông Xênh, ông Thanh mới khỏi ốm để đi viếng bạn. Ông được An đưa đến nghĩa trang dưới chân núi Khuê. Thằng Bi, con trai của An và Nguyên chạy lẫm chẫm theo ông. Nắng trưa vàng óng, kéo ba cái bóng thành một vệt dài lay động.
Cuối xuân, trời mưa bụi lâm thâm, Mi theo đoàn xe của trại cải tạo vào thăm bố. Mi ôm chặt cái balo, trong đó có gói mứt quất, mấy tấm giấy khen và một bức vẽ nhỏ trong lòng tay. A Lềnh gầy gò, tuy nhiên mắt bớt u ám. Thấy bố, Mi sà vào lòng.
- Chú An dẫn đồng đội đến sửa lại nhà mình, đây là giấy khen của con. Túi mứt quất để bố ngậm ho.
Rồi nó trịnh trọng lấy từ balo bức vẽ với những nét màu non nớt đưa cho A Lềnh.
- Bà bảo hôm ông mất, bố đi vắng, bà nhắc con vẽ chân dung ông để tặng bố.
A Lềnh run rẩy đón lấy bức chân dung của ông Xênh, từ trong đôi mắt ăn năn, buồn hơn bóng đêm dưới chân núi Khuê của hắn, vỡ ra hai giọt lệ trong vắt.
Truyện ngắn của Nguyên Tô