Ngay cả giới quý tộc Hungary - người mà an nguy của họ cũng lệ thuộc vào tình hình bảo vệ đất nước - cũng không mấy nhiệt tình với việc huy động quân đội. Những người có thể huy động được thì lại ở nhà. Họ không mong muốn củng cố vị thế của nhà vua, người mà họ cho rằng sẽ tước đoạt các đặc quyền của họ, cũng như của Nhà Habsburg. Họ chia thành nhóm người ủng hộ Palatine Bathory và Verboeczy, và còn chẳng thèm hợp lực ngay cả trên chiến trường!
Những quý tộc này đã buộc nhà vua phải tham chiến mà không cần đợi quân của John Zapolyai hoặc quân Croatia từ Frangipani (tổng cộng có 30.000 đến 40.000 người).
Một tu sĩ tên là Paul Tomori, Giám mục của Kalocsa, người từng được bổ nhiệm làm Tổng tư lệnh một cách miễn cưỡng, giờ đây hy vọng giành được tất cả vinh quang của một chiến thắng vĩ đại cho riêng mình. Ông có niềm tin tuyệt đối vào kị binh Hungary được bọc thép từ đầu đến chân, cả ngựa lẫn người. Ông đã hoàn toàn quên mất ưu thế của kị binh Thổ vốn nhẹ hơn và nhanh nhẹn hơn rất nhiều. Điều quan trọng hơn nữa là ông đã quên mất đội pháo binh của Ottoman.
Không có quân đồng minh hỗ trợ, 30.000 lính Hungary phải đối mặt với quân Ottoman đông hơn gấp đôi trên chiến trường. Người Thổ tuân theo kỷ luật sắt, còn các hiệp sĩ Hungary thì không tuân theo ai.
Cơ hội của họ thậm chí còn không mấy hứa hẹn ở chỗ họ không xây được bất kỳ công trình phòng thủ nào, và chọn ra một địa điểm chiến đấu có lợi cho việc triển khai lực lượng của đối phương nhiều hơn so với lực lượng của chính họ. Giám mục Perenyi dự đoán rằng 20.000 vị tử đạo Hungary sẽ sớm được lên thiên đường - đây quả là một sự đánh giá thấp quân thù.
Vào buổi trưa trước trận chiến, Suleiman tổ chức một hội đồng chiến sự. Tướng lĩnh của quân đồn trú (akinci1) đề nghị không nên tấn công trực diện vào kị binh Cơ đốc mà nên mở hàng ngũ cho họ đi qua và tấn công từ hai bên.
Suleiman đã đồng ý với chiến lược này, dự tính là sẽ mang lại chiến thắng chắc chắn. Ibrahim sau đó đã cho quân đội duyệt binh, hứa hẹn một lượng lớn chiến lợi phẩm với họ và đảm nhận vị trí ở tiền tuyến dẫn đầu quân Rumelia. Phía sau ông là quân Tiểu Á cùng với Quốc vương và pháo binh.
Tranh mô tả trận Mohács ngày 29/8/1526. Nguồn ảnh: Britannica.
Khoảng 3 giờ chiều ngày 29 tháng 8, trận đánh bắt đầu bằng một loạt đạn pháo của địch. Kị binh Hungary tấn công trước, với Perenyi và Tomori dẫn đầu, đúng như quân Ottoman đã dự đoán. Quân Rumelia phải gánh chịu hậu quả nặng nề của cuộc tấn công và thất thủ trước quân Tiểu Á.
Chiến thuật do vị tướng đề xuất sau đó đã được áp dụng: các kị binh đồn trú mở rộng hàng ngũ và quân Hungary lao vào cố gắng tiếp cận quốc vương và bắt giữ ông. Quân đồn trú biên giới bất ngờ tấn công người Hungary từ hai bên.
Sử gia người Thổ Kemalpashazade đã mô tả trận chiến rất thơ mộng như sau: “Khi quân đồn trú biên giới tấn công theo từng đợt dữ dội, một biển máu bắt đầu nổi lên thành từng đợt sóng sôi sục. Những chiếc mũ đội đầu màu đỏ của họ khiến chiến trường trở thành một thảm hoa tulip… Khiên nứt ra như nhụy hoa hồng, mũ sắt dính đầy máu tựa viền cánh hoa. Những màn sương máu tỏa lên như đám mây tím ngắt đến tận chân trời, như một khoảng trời hồng hào neo ở phía trên vị hôn phu của thần chiến thắng đầy vẻ vang…”
Các kị sĩ Hungary đã chiến đấu vô cùng dũng cảm. Một nhóm gồm 22 người trong số họ đã đến rất gần Suleiman, khiến ông rơi vào nguy cơ lớn bị mất mạng. Một số vệ sĩ của ông đã bị giết và ông vẫn giữ được mạng sống là nhờ có lính bộ binh Porte, những người vây quanh ông và chặt chân ngựa của quân thù. Bản thân nhà vua cũng đã chiến đấu dũng cảm. Mũi tên và thương giáo bắn trúng ông, nhưng chỉ làm bật tấm giáp ngực của ông ra mà thôi.
Pháo binh Ottoman sau đó tham chiến. Đúng lúc Lewis, tướng lĩnh của các sư đoàn kị binh còn lại, đến gần hàng rào phòng vệ được dựng lên bằng các khẩu súng có buộc dây xích của ông, tất cả khẩu đại bác của Ottoman đều nhất loạt nổ súng. Các kị sĩ Hungary bị nghiền nát. Các kị binh đồn trú biên giới truy đuổi những binh lính địch chưa bị đạn đại bác giết chết.
“Hai đội quân đã chiến đấu và tấn công nhau rất dữ dội. Những thanh kiếm lóe sáng chiếu rọi đến tận phương Đông xa xôi. Những mũi tên, thương và lao bằng gỗ đã thổi bùng lên ngọn lửa chiến tranh. Tấm giáp ngực bị các lưỡi kiếm chém nứt trông giống như những tấm lưới bị cá kiếm xé toạc”.
Cuộc chiến tiếp tục kéo dài đến tối. Các khẩu đại bác Hungary, do các xạ thủ thiếu kinh nghiệm điều khiển, hầu như không đóng vai trò gì. Đội kị binh anh hùng nhưng thiếu tính kỷ luật và không được dẫn dắt đã gánh chịu toàn bộ sức nặng của trận chiến. Kemalpashazade bày tỏ lòng kính trọng đối với Paul Tomori,
Tổng tư lệnh Hungary: “Giống như gang đúc, trận chiến càng ập đến với mình, ông càng đắm mình vào đó và nắm lấy sức mạnh từ nó. Giống như một con rắn hổ lục hay một con voi, ông tự mình đứng vững trước những nanh vuốt của cuộc chiến hoặc những hòn đá được bắn ra trên chiến trận. Người mang đầy thương tích, giống như một con chó điên, ông cố giữ cho mình vững vàng. Khi lao vào tấn công mãnh liệt như dòng sông Nile, ông rống lên như những con voi đang dọa cho lũ hổ và sư tử phải tháo chạy…”
Quân lính Hungary tỏa ra mọi hướng. Nhiều người bị mắc kẹt trong đầm lầy, trong đó có Vua Lewis: “Bị nhấn chìm trong sự xấu hổ, quân nổi loạn đã mang theo vũ khí mà lao ngựa xuống sông, khiến số lính ngã gục trong ngọn lửa và dòng nước ngày càng tăng…” Suleiman đã nắm chắc phần thắng trong tay.
André Clot/Bách Việt Books-NXB Dân Trí