Trí tuệ nhân tạo và tác động vĩ mô đến kinh tế, xã hội thế giới

Trí tuệ nhân tạo và tác động vĩ mô đến kinh tế, xã hội thế giới
4 giờ trướcBài gốc
Tình trạng thất nghiệp do AI ngày càng gia tăng
Với những người lạc quan, AI mở ra kỷ nguyên thịnh vượng, nơi con người có thể giải quyết những vấn đề tưởng chừng nan giải, từ y tế, kỹ thuật cho đến xã hội, để bước vào một tương lai dư dả về vật chất. Nhưng viễn cảnh ấy không hề được đảm bảo. Và ngay cả khi AI đạt đến tiềm năng tối đa, liệu sự dư thừa ấy có được phân phối công bằng?
Khi dư thừa vẫn đi kèm bất bình đẳng
Một lát cắt nhỏ đã hiện ra trong kinh tế lương thực Úc: mỗi năm, người dân Úc vứt bỏ khoảng 7,6 triệu tấn thực phẩm, tức trung bình 312kg mỗi người. Trong khi đó, cứ 8 người thì có một người rơi vào tình trạng thiếu ăn vì không đủ tiền mua thực phẩm.
Điều này gợi ra câu hỏi: nếu ngay cả với thực phẩm dư dả mà phân phối vẫn bất công, thì khi AI tạo ra sự thừa thãi tri thức và công nghệ, chúng ta có đủ khả năng chia sẻ lợi ích ấy cho tất cả không?
Kinh tế học, như Lionel Robbins từng định nghĩa, là mối quan hệ giữa nhu cầu vô hạn và nguồn lực khan hiếm. Thị trường tồn tại để phân bổ khan hiếm ấy. Nhưng AI, với hứa hẹn tạo ra của cải dư thừa, dường như phá vỡ logic này.
Nỗi lo gắn liền: hàng triệu người có nguy cơ mất việc. Nếu không có việc làm, họ không có thu nhập và khi đó thị trường sẽ vận hành thế nào?
Bài học từ khủng hoảng và đại dịch
Cần nhớ rằng không chỉ công nghệ mới gây thất nghiệp. Bản thân hệ thống thị trường cũng có thể sản sinh nghịch lý “dư thừa trong thiếu thốn”, như John Maynard Keynes đã chỉ ra từ thế kỷ trước.
Ở Úc, cú sốc kinh tế gần nhất đến từ đại dịch COVID-19, không phải thị trường tự khủng hoảng. Nhưng trong lúc đó, chính sách nâng trợ cấp, nới điều kiện xét duyệt đã giảm nghèo và bất an lương thực, dù sản lượng toàn nền kinh tế đi xuống.
Kinh nghiệm này, được nhiều nước lặp lại, củng cố tiếng gọi cho thu nhập cơ bản phổ quát (UBI) - một khoản thu nhập đảm bảo cho mọi người đủ sống, để xã hội có thể bước qua thời kỳ AI mà không bỏ rơi ai phía sau.
Dù vậy, ý tưởng UBI cũng gây tranh cãi. Một số nhà nghiên cứu như Elise Klein và James Ferguson cho rằng không nên coi nó như phúc lợi, mà là một quyền lợi chính đáng: của cải được tạo ra từ tiến bộ công nghệ và sự hợp tác xã hội là thành quả chung của nhân loại, cần chia đều cho tất cả, giống như tài nguyên thiên nhiên thuộc về toàn dân.
Thực tế, tranh luận này không mới. Thế kỷ 19, Luddites từng phá máy dệt để phản đối việc công nghệ làm giảm lương. Đầu thế kỷ 20, khi công nghiệp hóa và tự động hóa gia tăng, nước Anh cũng chứng kiến phong trào đòi hỏi cơ chế chia sẻ công bằng thành quả phát triển.
Một viễn kiến khác đến từ tác giả Aaron Bastani. Theo ông, thay vì trợ cấp tiền, nhà nước nên cung cấp trực tiếp dịch vụ cơ bản phổ quát: y tế, giáo dục, năng lượng, giao thông, chăm sóc… miễn phí cho tất cả.
Điều này không chỉ phân phối công bằng hơn, mà còn buộc công nghệ, trong đó có AI phải được triển khai vì nhu cầu chung, chứ không phải vì lợi nhuận riêng.
Không có bảo đảm thiên đường utopia
Những đề xuất về thu nhập cơ bản phổ quát hay dịch vụ cơ bản phổ quát cho thấy rằng, ngay cả với cách nhìn lạc quan nhất, bản thân AI khó có thể mang lại một thiên đường không tưởng.
Như Peter Frase đã nêu, sự kết hợp giữa tiến bộ công nghệ và sụp đổ sinh thái có thể tạo nên nhiều viễn cảnh khác nhau, không chỉ trong việc chúng ta có thể sản xuất được bao nhiêu, mà còn trong cách chúng ta quyết định phân phối ai sẽ được gì và theo những điều kiện nào.
Quyền lực khổng lồ của các tập đoàn công nghệ do giới tỷ phú kiểm soát thậm chí còn gợi đến viễn cảnh mà cựu Bộ trưởng Tài chính Hy Lạp Yanis Varoufakis gọi là “chủ nghĩa phong kiến công nghệ” (technofeudalism), nơi quyền kiểm soát công nghệ và nền tảng trực tuyến thay thế thị trường và dân chủ bằng một hình thức độc tài mới.
Chờ đợi một “thiên đường công nghệ” sẽ bỏ lỡ những khả năng thực sự ngay trong hiện tại. Chúng ta vốn đã có đủ lương thực cho tất cả mọi người. Chúng ta đã biết cách chấm dứt đói nghèo. Ta không cần AI phải mách bảo điều đó.
Trong thế kỷ 19, ở Anh, đã từng diễn ra một phong trào phản kháng nổi tiếng chống lại máy móc mang tên Luddite.
Bối cảnh lúc đó là cuộc Cách mạng công nghiệp, khi máy dệt, khung cửi chạy bằng hơi nước và các thiết bị cơ giới hóa khác xuất hiện, làm thay đổi hoàn toàn ngành dệt may - một ngành quan trọng bậc nhất ở châu Âu. Trước kia, thợ dệt thủ công được trả tiền công khá cao và có vị thế nhất định trong xã hội. Nhưng khi các xưởng máy mọc lên, những người thợ lành nghề bỗng dưng bị thay thế bởi máy móc và lao động phổ thông, vốn rẻ hơn rất nhiều.
Hệ quả là thu nhập của thợ thủ công sụt giảm mạnh, trong khi điều kiện lao động trong nhà máy lại khắc nghiệt, giờ giấc kéo dài và ít quyền lợi. Từ năm 1811 đến 1816, nhiều nhóm thợ dệt đã nổi dậy, phá hủy máy móc tại các xưởng dệt ở Nottinghamshire, Yorkshire và Lancashire. Họ tự gọi mình là “người của Ned Ludd” – một nhân vật huyền thoại được cho là đã từng phá máy dệt từ trước. Từ đó, cái tên “Luddite” ra đời để chỉ những người chống lại công nghệ.
Phong trào Luddite không chỉ đơn thuần là hành động phá hoại máy móc, mà còn mang tính xã hội sâu sắc: đó là sự phản kháng của tầng lớp lao động khi cảm thấy quyền lợi và sinh kế bị đe dọa bởi tiến bộ công nghệ. Chính quyền Anh thời đó phản ứng mạnh mẽ: phá máy bị xem là tội nặng, thậm chí có thể bị xử tử hoặc đày sang thuộc địa.
Dù phong trào bị đàn áp, “Luddite” vẫn trở thành biểu tượng lịch sử cho nỗi lo sợ rằng công nghệ có thể hủy hoại việc làm và làm trầm trọng thêm bất công xã hội. Ngày nay, thuật ngữ này thường được dùng để chỉ những người bi quan hoặc phản đối việc áp dụng công nghệ mới.
Bùi Tú
Nguồn Một Thế Giới : https://1thegioi.vn/tri-tue-nhan-tao-va-tac-dong-vi-mo-den-kinh-te-xa-hoi-the-gioi-236415.html