Trở lại Bến Xuân

Trở lại Bến Xuân
6 giờ trướcBài gốc
Riêng tôi đã được đến đó hai lần, với những người đồng hành khác nhau, khoảng cách thời gian cũng thăm thẳm hàng chục năm khác. Chúng tôi kể hai câu chuyện nghệ thuật không giống nhau. Chúng tôi dựa hẳn vào bối cảnh say lòng này mà hát mà kể chuyện Trương Chi với Thiên thai Bến Xuân, thậm chí còn trưng trổ giáo gươm, bày ra nào tráng sĩ nào vua chúa nào giai nhân, vẽ ra một câu chuyện dã sử khốc liệt trên bến dưới thuyền vừa nên thơ vừa náo động.
Chỉ vì thiên nhiên nơi ấy quá xinh đẹp, nho nhã và trữ tình.
Câu chuyện thứ nhất: “Suối mơ, bên rừng thu vắng…”
Năm 1994, chúng tôi đi làm phim ca nhạc về Văn Cao.
Chúng tôi tìm đến căn gác 108 Yết Kiêu, Hà Nội, lên từng bậc cầu thang quét vôi vàng cũ kỹ, đã chuyển sang loang lổ, trình bày với Văn Cao ý định làm một bộ phim ca nhạc. Ông cười hiền lành, nói sẵn sàng cùng đi với chúng tôi đến những nơi đã khắc dấu kỷ niệm của đời ông. Năm đó Văn Cao hơn bảy mươi tuổi, nhưng ông yếu và già hơn những người đồng tuổi vì bao gian khó, vì rượu, vì thơ… Ông say sưa kể chúng tôi nghe những câu chuyện về hoàn cảnh ra đời của từng bài hát. Vì sao có những Suối mơ, Thiên thai, có Bến Xuân, có Trương Chi… Chúng tôi được ông chia sẻ, ấm áp và cởi mở, những câu chuyện, những mối tình, những khoảnh khắc chìm trong hồi ức.
Vị đạo diễn Đinh Anh Dũng khi vừa nghe bản demo ca khúc Suối mơ, đã “phán” ngay: “Mình sẽ đi Tam Cốc - Bích Động, nơi đó chính là Suối mơ”.
Mấy bác cháu bắt đầu đi, từ làng Vân, Kinh Bắc (bối cảnh chúng tôi quay bài Cung đàn xưa), qua ngoại thành Hà Nội, vào trong Bích Động, Ninh Bình, lênh đênh trên sông Đà để quay bài hát... Sông Lô. Trên dọc đường thiên lý, những người nhận ra Văn Cao rất nhiều. Đoàn phim hầu hết là người Sài Gòn, khá ngỡ ngàng khi lần đầu tiên ra Bắc, làm phim ca nhạc với những cú máy… phải êm như nhung, phải nương theo những ráng chiều, hoàng hôn, giọt sương mai… những khung cảnh đẹp như mơ, với khoảnh khắc ngẫu hứng của… “diễn viên” Văn Cao, với những câu nói ý nhị, dí dỏm, hóm hỉnh rất đặc biệt của ông. Thí dụ: “Tôi là… cái người luôn luôn thất bại về tình yêu… bởi vì tôi không giỏi về cách… giao lưu với những người đàn bà, mà đối với người đẹp, tôi lại càng bối rối… tôi… bèn nói trong thơ thôi… hề, hề…” (phần mở đầu trong album).
Thanh Thủy (thứ ba từ phải) cùng đoàn làm phim về Văn Cao, 1994. Ảnh: TLNV
Việc tìm kiếm diễn viên và ca sĩ cũng rộn ràng không kém. Chúng tôi tìm mãi không ra “nàng thơ” của Văn Cao, một hình bóng mộng nhiều hơn thật, sẽ thấp thoáng từ đầu đến cuối phim. Vị đạo diễn cứ ngó nghiêng ngó ngửa rồi bắt chuyện làm quen với các nàng thôn nữ cố đô Hoa Lư, hy vọng sẽ thuyết phục được một nàng chịu đi đứng mơ hồ mờ tỏ làm nhân ảnh cho phim, nhưng nàng nào cũng bẽn lẽn cười duyên từ chối thẳng thừng.
Chọn Hồng Nhung hát Suối mơ cũng là thể nghiệm đầy mạo hiểm. Suối mơ đã in hằn trong lòng người nghe những tiếng hát của Lệ Thu, Thái Thanh, Kim Ngọc… thời xa xưa và gần nhất thật lộng lẫy với vài ca sĩ khác. Chúng tôi muốn nó tươi tắn, gần gũi và mới mẻ hơn. Lúc đó, Hồng Nhung chỉ là một ca sĩ trẻ, và thật may mắn, Hồng Nhung đã mang đến một Suối mơ vừa cách điệu vừa dịu mát - tôi nghĩ đó là một trong những clip dễ thương nhất của Hồng Nhung cho đến tận bây giờ. Tôi còn nhớ tiếng hát chơi vơi cùng tiếng mái chèo khua nước nhẹ nhàng, chúng tôi nhìn lên những ngọn núi xanh, thấy thấp thoáng những chú sơn dương chạy tung tăng. Thiên nhiên thuở đó còn hoang sơ lắm.
Văn Cao cứ lững thững đi, lững thững nói về âm nhạc, về nỗi buồn, nỗi cô đơn, về mùa thu và những người đẹp, mái tóc bạc và chòm râu thưa của ông la đà lãng đãng trong không gian hư hư thực thực của thuyền, làn nước êm đềm, tiếng âm vang trong vòm hang, cánh cò trắng chấp chới mà những tay máy quay phim cứ lê lết no nê vì cảnh sắc và nhân vật.
Tôi còn nhớ, khi vừa xuống Tam Cốc, ai cũng ngỡ ngàng khi nhìn thấy những chiếc thuyền nan bên những bến nước có hàng liễu xanh đẹp hơn tranh vẽ. Một rừng thu phong kín. Chính Văn Cao thốt lên: “Cảnh quê hương mình quá đẹp, cho tôi làm anh Trương Chi chèo thuyền ở đây mãi cũng được”. Có điều chúng tôi hoàn toàn không ngờ, những cảnh sắc mong manh và mơ hồ này lại trở thành một hiện thực rực rỡ, những khung hình từ Suối mơ Tam Cốc đó đã mở đầu cho thời kỳ video của nhạc Việt, kéo dài đến hàng chục năm sau…
Sau này tôi đi làm phim Thiên mệnh anh hùng cũng trở lại Ninh Bình, cảnh cũ nhưng người xưa đã vắng, hương sắc đó vào phim chiếu rạp màn ảnh lớn làm nao lòng người xem, nhưng mấy ai biết nó từng được khai phá, để làm nền cho những tuyệt phẩm của Văn Cao.
Câu chuyện thứ hai: Thiên mệnh anh hùng
Thiên mệnh anh hùng là bộ phim đẹp lộng lẫy, có lẽ đến nay cũng chưa có phim Việt nào có thể mô tả vùng trời mây non nước Hoa Lư Ninh Bình đặc sắc như vậy. Càng đẹp hơn khi có một câu chuyện lãng mạn diễn ra ở đó. Chúng tôi quay những cảnh đầu tiên ở Tam Cốc. Khi đi chọn cảnh, Victor Vũ cũng không ngờ vùng này thích hợp với câu chuyện bi tráng của anh đến thế. Chính từ những góc núi rừng kỳ ảo đó, mà anh về chọn diễn viên, sửa lại kịch bản để bộ phim càng hay càng lay động. Anh chọn Mi Du vào vai Hoa Xuân, có thể anh biết vẻ đẹp trong trẻo của cô rất hợp với bối cảnh thanh thoát của nơi này.
Mi Du, cô gái thị thành lần đầu tiên mới đến một vùng thắng cảnh đẹp mê say, nhưng cô chẳng có mấy thời giờ để nhìn ngắm vì vai diễn của mình vừa khó vừa thách thức. Cô là một nàng Hoa Xuân tiểu thư kiêm hiệp khách, vừa sơn nữ vừa thôn trang, giỏi thêu thùa may vá lại tuyệt chiêu cung kiếm, áo tứ thân mong manh rồi rắn rỏi quân trang thành sát thủ để đột nhập thâm cung.
Diễn viên Mi Du và Huỳnh Đông trong phim Thiên mệnh anh hùng, công chiếu 2012. Ảnh: PNF
Cô kể lại: “Đạo diễn suốt ngày quần tôi với những pha đu bay, múa kiếm… Tôi đổ mồ hôi và cả bị thương ở “sa trường” này, nên cảnh đẹp mấy tôi chẳng có hơi sức ngắm nhìn. Có hôm sinh nhật tôi, chúng tôi quay từ sáng sớm đến khuya, tôi vừa mệt vừa tủi thân. Đúng lúc đó, anh em trong đoàn kéo nhau tới chỗ tôi nhao nhao nói sao hôm nay tôi sai sót, không tập trung, diễn xuất không đạt, làm hỏng cảnh quay của cả đoàn... Tôi buồn quá, lao ra ngoài trời mưa đứng khóc ầm ĩ giữa mênh mông sông suối và núi rừng. Bất ngờ mọi người ôm một ổ bánh và hát mừng sinh nhật. Tôi quá bất ngờ, vui và ngượng vì… khóc sớm quá, không biết mọi người trêu mình. Tôi có một sinh nhật đáng nhớ như vậy”.
Có thể nói, điều ấn tượng ở Thiên mệnh anh hùng phần lớn là nhờ những khung hình có một không hai về bối cảnh và vùng đất đẹp lạ lùng đó, cùng với những xuân sắc Sài Gòn như Mi Du, Vân Trang, Kim Hiền… và những trai tài lãng tử kiểu Khương Ngọc, Huỳnh Đông, Minh Thuận… Riêng tôi, khi ngắm Mi Du, tôi lại nhớ đến những ngày tháng đi làm phim Văn Cao xưa - nếu ngày ấy có một nàng thơ như nàng, thì bộ phim ca nhạc đó càng long lanh biết mấy.
Nhưng không sao, hai mươi mấy năm sau, nàng thơ Hoa Xuân đã xuất hiện, nàng vừa đẹp như suối mơ vừa khí phách gái Việt.
Về sau, càng lúc càng có nhiều đoàn phim đến Ninh Bình quay, thậm chí rất đại cảnh và phô trương kỹ xảo kiểu như Kong (Đảo Đầu Lâu - Skull Island). Ở góc độ riêng của mình, tôi không thích Suối mơ êm đềm trong ký ức ngày nào bị con Kong to lớn kềnh càng và rất xấu xí đó khuấy đảo ào ào, lăn lộn gầm rú vang trời như vậy. Cảnh bồng lai đó chỉ hợp với những câu chuyện nhỏ nhẹ, người kể chuyện biết nâng niu từng cánh cò trắng, từng chiếc thuyền nan, buổi nắng sớm hay chiều tà, đến từng “cánh nhạn vào mây thướt tha”…
Vì đâu dễ gì có được một nơi, mà ông trời ra tay thiết kế hài hòa trữ tình mênh mang đến thế. Một nhà quay phim đã thốt lên: “Việt Nam chúng ta có quá nhiều cảnh đẹp. Máy quay chỉ có thể đưa những cảnh đẹp lên phim, còn những cảnh quá đẹp thì đến điện ảnh cũng phải… bất lực”.
Thanh Thủy
Nguồn Người Đô Thị : https://nguoidothi.net.vn/tro-lai-ben-xuan-49374.html