Chính phủ, Bộ Khoa học và Công nghệ cùng nhiều bộ, ngành liên quan đang khẩn trương xây dựng các cơ chế, chính sách mới với kỳ vọng sẽ mở ra đột phá, tạo môi trường để nhân tài trong và ngoài nước yên tâm cống hiến.
Nghiên cứu khoa học tại phòng thí nghiệm của Đại học Quốc gia Hà Nội.
Thiết lập cơ chế riêng cho những cá nhân có năng lực xuất sắc
Mới đây, Chính phủ đã ban hành số Nghị định số 231/2025/NĐ-CP về tuyển chọn, sử dụng tổng công trình sư và kiến trúc sư trưởng trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Đây là lần đầu tiên nước ta thiết lập cơ chế riêng cho những cá nhân có năng lực xuất sắc, được ví như “nhạc trưởng” dẫn dắt các chương trình, dự án chiến lược.
Theo nghị định, tổng công trình sư và kiến trúc sư trưởng sẽ được giao quyền, trách nhiệm và đãi ngộ đặc biệt, thậm chí có thể hưởng mức lương tương đương chức danh bộ trưởng, kèm cơ chế hợp đồng linh hoạt, tiền thưởng, nhà ở công vụ và điều kiện làm việc tương xứng.
Nghị định cũng xác định rõ tiêu chí lựa chọn khắt khe: Ứng viên phải có trình độ, uy tín, kinh nghiệm và thành tích nổi bật trong nghiên cứu, triển khai các nhiệm vụ quy mô lớn, có khả năng giải quyết vấn đề phức tạp và dẫn dắt liên ngành. Với cơ chế này, những nhà khoa học giỏi sẽ không còn bị bó buộc trong biên chế truyền thống, mà có thể tập trung toàn lực cho nhiệm vụ được giao, được quyền xây dựng đội ngũ cộng sự và trực tiếp đề xuất kinh phí, chính sách cần thiết để bảo đảm hiệu quả...
Song song với đó, Bộ Khoa học và Công nghệ cũng đang hoàn thiện dự thảo nghị định hướng dẫn thi hành Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo (có hiệu lực từ ngày 1-10-2025).
Về vấn đề này, Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ (Bộ Khoa học và Công nghệ) Nguyễn Thị Nga cho biết, điểm nhấn của dự thảo này là coi nhân tài là đối tượng điều chỉnh riêng, thay vì gộp chung như trước. Các cơ chế mới được thiết kế theo hướng linh hoạt và hội nhập quốc tế: Giao trực tiếp nhiệm vụ quan trọng cho nhân tài; xây dựng môi trường nghiên cứu hiện đại, chấp nhận rủi ro trong khoa học; cùng với đó là chính sách lương thỏa thuận theo thị trường, quyền hưởng lợi nhuận từ kết quả nghiên cứu và nhiều hỗ trợ về tài chính, nhà ở, an sinh xã hội...
Vẫn còn nhiều thách thức
Mặc dù chính sách mới mang nhiều đột phá, câu hỏi lớn đặt ra là làm sao để những cơ chế này thực sự đi vào cuộc sống? Trên thực tế, Việt Nam vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức về nguồn nhân lực khoa học và công nghệ. Năm 2024, chỉ có 9% và 12% thí sinh chọn các ngành công nghệ kỹ thuật, máy tính và công nghệ thông tin. Lực lượng nghiên cứu hiện tại cũng chỉ đạt một nửa so với mức trung bình của các quốc gia thu nhập trung bình cao. Cơ sở vật chất còn lạc hậu, đội ngũ giảng viên hạn chế, trong khi 30% sinh viên tốt nghiệp làm trái ngành. Đây là những rào cản khiến việc xây dựng đội ngũ nhân tài chất lượng cao trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Theo Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa - Xã hội của Quốc hội Tạ Văn Hạ, ngoài chế độ đãi ngộ, nhân tài cần môi trường nghiên cứu chuyên nghiệp, tự do sáng tạo và cơ chế đánh giá công bằng.
Điều này cũng được GS.TS khoa học Nguyễn Đình Đức (Đại học Quốc gia Hà Nội) chia sẻ: “Việc mời chuyên gia quốc tế về nước là vô cùng khó, không thể chỉ dựa vào mức lương cao. Nhiều dự án trước đây trả hàng chục nghìn USD vẫn thất bại vì thiếu môi trường phù hợp”. Theo ông, chính sách thu hút nhân tài phải gắn với hệ sinh thái nghiên cứu đồng bộ, minh bạch, tạo cơ hội phát huy năng lực và bảo đảm công bằng giữa chuyên gia trong nước và quốc tế.
Một vấn đề khác là sự thiếu vắng các “tổng công trình sư” trong nhiều lĩnh vực chiến lược như: Trí tuệ nhân tạo, bán dẫn, công nghiệp quốc phòng… Việc ban hành cơ chế mới để tuyển chọn và đãi ngộ đặc biệt cho những người đủ khả năng dẫn dắt các chương trình quy mô lớn chính là để lấp đầy khoảng trống này. Song, để tìm được những cá nhân xuất sắc như vậy, Nhà nước không thể thụ động chờ đợi mà cần chủ động tìm kiếm, mời gọi, kể cả từ cộng đồng người Việt ở nước ngoài và chuyên gia quốc tế.
Để chính sách trọng dụng nhân tài thực sự hiệu quả, cần hoàn thiện hành lang pháp lý minh bạch, ổn định; xây dựng hệ sinh thái nghiên cứu đồng bộ với phòng thí nghiệm hiện đại, cơ chế tự chủ và gắn kết doanh nghiệp. Đồng thời, phải đổi mới đào tạo, phát hiện người tài từ sớm, đặc biệt trong các ngành khoa học cơ bản, công nghệ chiến lược.
Trong kỷ nguyên số, khi cạnh tranh toàn cầu về nhân lực khoa học, công nghệ ngày càng khốc liệt, Việt Nam không có lựa chọn nào khác ngoài việc trọng dụng nhân tài bằng những chính sách thực chất và môi trường cởi mở. Những bước đi mới từ dự thảo nghị định, đề án nhân tài đến cơ chế “tổng công trình sư”, “kiến trúc sư trưởng” cho thấy quyết tâm lớn của Đảng, Nhà nước. Song, chính sách chỉ phát huy hiệu quả khi đi đôi với sự đồng hành, công bằng và niềm tin. Đó mới là nền tảng để nhân tài khoa học, công nghệ thực sự trở thành lực lượng tiên phong, góp phần đưa Việt Nam bứt phá, vươn lên thành quốc gia phát triển trong tương lai.
Thu Hằng