(Ảnh: Iran Press)
Thứ nhất, khu vực này chứa một trong những trữ lượng dầu lớn nhất thế giới - hơn 67 tỷ thùng dầu - cùng với lượng khí đốt khổng lồ đi kèm. Một lợi thế bổ sung của những trữ lượng dầu này là chi phí khai thác trung bình thuộc hàng thấp nhất thế giới (ngang với Iran và Ả Rập Xê-út), chỉ 2-3 USD/thùng.
Thứ hai, một số mỏ trong khu vực này là mỏ chung với Iraq, điều then chốt đối với khả năng lâu dài của Iran trong việc tiếp tục xuất khẩu khối lượng lớn dầu bất chấp lệnh trừng phạt, vì có thể được "hợp thức hóa" dưới dạng dầu của Iraq. Các mỏ chung này bao gồm Azadegan (chung với mỏ Majnoon khổng lồ của Iraq), Yadavaran (Iraq gọi là Sinbad), Azar (Iraq gọi là Badra), Naft Shahr (Naft Khana), Dehloran (Abu Ghurab), West Paydar (Fakka) và Arvand (South Abu Ghurab).
Thứ ba, Trung Quốc và Nga có các cam kết lâu dài tại nhiều mỏ trong vùng West Karoun, bao gồm cả phát triển dầu và khí, và họ sẵn sàng tiếp tục tham gia bất chấp áp lực trừng phạt ngày càng tăng từ Mỹ. Cả hai quốc gia đã tái khẳng định điều này với Iran tại Hội nghị Hội đồng Nguyên thủ Quốc gia lần thứ 25 của Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO) ở Thiên Tân tuần trước.
Trong hai nước, Trung Quốc luôn có sự hiện diện lớn hơn tại West Karoun, đặc biệt sau khi ký "Thỏa thuận Hợp tác Toàn diện 25 năm Iran-Trung Quốc". Trước thỏa thuận này, Ngoại trưởng Iran khi đó là Mohammad Zarif và người đồng cấp Trung Quốc Vương Nghị đã quyết định rằng các công ty Trung Quốc sẽ tăng sản lượng 355.000 thùng/ngày (bpd) tại West Karoun thêm 145.000 bpd trong giai đoạn đầu (lên 500.000 bpd) và sau đó tăng thêm 500.000 bpd nữa (đạt 1 triệu bpd). Theo phát biểu cách đây hơn một tuần của Giám đốc điều hành Công ty Kỹ thuật và Phát triển Dầu khí Iran (PEDEC) - ông Nasrollah Zarei - hiện cụm mỏ West Karoun đã khai thác hơn 500.000 bpd.
Chiến lược phát triển của Trung Quốc tại các mỏ này từ thời điểm đó đã trở thành một khuôn mẫu cho cách tiếp cận thận trọng hơn, khi khai thác dầu khí tại các quốc gia chịu trừng phạt của Mỹ, và vẫn được duy trì đến ngày nay. Vào năm 2019, Mỹ vừa mới đơn phương rút khỏi Kế hoạch Hành động Chung Toàn diện (JCPOA) với Iran và tái áp đặt các lệnh trừng phạt. Đồng thời, Washington và Bắc Kinh cũng đang trong một cuộc Chiến tranh Thương mại.
Chiến lược của Trung Quốc khi đó là chuyển từ các hợp đồng thăm dò và phát triển khổng lồ thu hút nhiều chú ý, sang những hợp đồng "chỉ theo hạng mục" có quy mô nhỏ hơn tại các mỏ lớn của Iran (và cả Iraq), dù gần như toàn bộ chúng đều do công ty Trung Quốc kiểm soát. Một ví dụ điển hình sớm nhất là thông báo của Bộ Dầu mỏ Iran về các hợp đồng phát triển trị giá 1,3 tỷ USD nhằm hơn gấp đôi sản lượng tại mỏ South Azadegan. Thực tế, nhiều công ty Trung Quốc đã nhận 11 hợp đồng "chỉ theo hạng mục" tại mỏ này, bao gồm khoan giếng, bảo trì mỏ, kỹ thuật, xây dựng, và công nghệ. Gộp lại, đây chính là một chương trình thăm dò và phát triển toàn diện cho mỏ dầu khổng lồ này.
Để đạt mục tiêu sản lượng 1 triệu bpd từ West Karoun, dự kiến Iran sẽ tiếp tục áp dụng chiến lược tương tự, theo một nguồn tin cấp cao trong ngành dầu khí Iran. "Các hợp đồng mới sẽ bao gồm những hạng mục thiết yếu như các trạm xử lý trung tâm ở South Azadegan, hệ thống thu gom và nén khí, giàn khoan mới cho Yadavaran, và thiết bị nứt vỉa thủy lực hiện đại cho các mỏ Sepehr và Jofeir", nguồn tin cho biết.
Nga nhiều khả năng cũng sẽ áp dụng cách tiếp cận kín đáo tương tự tại những khu vực của West Karoun mà họ có lợi ích lâu dài, một phần vì lý do liên quan đến Mỹ như Trung Quốc, và một phần vì áp lực tài chính ngày càng tăng từ cuộc chiến ở Ukraine. Trước khi Mỹ rút khỏi JCPOA, Nga đã ký nhiều biên bản ghi nhớ (MoU) về bảy mỏ dầu khí lớn ở Iran - nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác, bao gồm GazpromNeft tại các mỏ Changouleh và Cheshmeh-Khosh, Zarubezhneft tại Aban và Paydar Gharb, Tatneft tại Dehloran, và Lukoil tại Ab Teymour và Mansouri.
Sau khi Nga tiến hành chiến dịch quân sự đặc biệt ở Ukraine, tháng 7/2022, Tổng thống Putin đã tới Tehran gặp người đồng cấp Iran để củng cố thỏa thuận MoU lớn hơn trị giá 40 tỷ USD được ký vài ngày trước đó giữa Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Iran (NIOC) và Gazprom.
Trong số các thỏa thuận, Gazprom cam kết hỗ trợ đầy đủ NIOC trong dự án 10 tỷ USD phát triển các mỏ khí Kish và North Pars, với mục tiêu đạt sản lượng hơn 10 triệu m³ khí mỗi ngày. Thỏa thuận cũng bao gồm dự án 15 tỷ USD nhằm tăng áp suất cho mỏ khí siêu khổng lồ South Pars nằm ở vùng biển chung Iran - Qatar.
Gazprom còn hứa hỗ trợ hoàn thiện các dự án LNG, xây dựng đường ống xuất khẩu khí, và quan trọng nhất là cung cấp công nghệ, thiết bị để gia tăng sản lượng từ các mỏ trong cụm West Karoun. Trong ngắn hạn, Nga dự kiến sẽ cung cấp giàn khoan tiên tiến cho mỏ Azar (chung với Iraq), công nghệ khoan kép cho các mỏ Aban và Paydar Gharb, thiết bị khoan mới và các đơn vị khử muối tại Cheshmeh Khosh.
Thời gian để các cải thiện này đưa cụm mỏ West Karoun đạt sản lượng 1 triệu bpd vẫn còn chưa rõ, nhưng tiềm năng để làm điều đó là rất lớn.
Cần lưu ý rằng hiện nay, tỷ lệ thu hồi dầu tại khu vực này chỉ đạt 3,5 - 4,5%. Trước khi Mỹ rút khỏi JCPOA năm 2018 và tái áp đặt lệnh trừng phạt, nhiều tập đoàn dầu khí quốc tế đã trình bày cho Bộ Dầu mỏ Iran các kế hoạch khả thi nhằm nhanh chóng nâng cao tỷ lệ thu hồi. Theo một nguồn tin Iran từng xem đầy đủ các đề xuất này, kế hoạch có thể nâng tỷ lệ thu hồi lên ít nhất 12,5% chỉ trong vòng một năm, 20% trong hai năm và ít nhất 50% trong năm năm.
Với hơn 67 tỷ thùng dầu tại chỗ ở West Karoun, Bộ Dầu mỏ Iran nhiều lần khẳng định rằng cứ mỗi 1% tăng tỷ lệ thu hồi sẽ giúp bổ sung thêm 670 triệu thùng dầu có thể khai thác, tương đương 33 tỷ USD doanh thu nếu giá dầu ở mức 50 USD/thùng.
Bình An