Ở xã Mỏ Vàng, tuyến đường lên thôn Khe Lóng 3 được người dân gọi vui là “con đường của Giàng” - tuyến đường dốc cao, quanh co, như chạm vào tầng mây. Sau các đợt mưa lũ hồi tháng 9 và tháng 10 vừa qua, đất, đá sạt lở khiến tuyến đường độc đạo vào thôn càng thêm hiểm trở. Thế nhưng, mỗi sớm - mỗi chiều, giữa màn sương mù đặc, người dân vẫn thấy bóng cô giáo Trương Thị Thu kiên trì vượt “con đường của Giàng” để đến với Điểm trường Mầm non Khe Lóng 3 (Trường Mầm non Mỏ Vàng).
Thôn Khe Lóng 3 có 103 hộ dân người dân tộc Mông sống biệt lập giữa đại ngàn. Điểm trường có hơn chục trẻ từ 2 đến 5 tuổi, nhưng khoảng cách từ nhà đến lớp lại xa, có hộ cách đến 2 km đường mòn. Vào những ngày đông rét buốt, trời sáng muộn, đường trơn trượt, tầm nhìn hạn chế, việc duy trì tỷ lệ chuyên cần ở đây trở thành thử thách lớn.
Cô giáo Thu trăn trở nhất là những hôm sương mù dày, ánh sáng yếu, trong khi thôn chưa có điện lưới, còn điện năng lượng mặt trời lại không hoạt động. Bình nước nóng năng lượng mặt trời bị “tê liệt”, các em không có nước ấm để sử dụng, việc tổ chức dạy học và chăm sóc trẻ càng thêm khó khăn.
Không chỉ riêng Mỏ Vàng, ở Điểm trường Móng Sến họ Cứ thuộc Trường Phổ thông Dân tộc bán trú Tiểu học Trung Chải, xã Tả Phìn, tinh thần “cắm bản” của các thầy - cô giáo cũng khiến nhiều người khâm phục. Mặc dù điểm trường chính nằm ngay bên Quốc lộ 4D, nhưng Điểm trường Móng Sến họ Cứ nằm chót vót trên đỉnh núi cao. Đường đến điểm trường xếp thành từng tầng trên những dãy núi.
Mới đây, do ảnh hưởng mưa bão, khu vực này có nhiều đoạn bị sạt lở đất, đá. Đường vốn đã xuống cấp nay lại càng xuống cấp trầm trọng với phần mặt đường trồi sụt, đất bùn dày ngập lưng bánh xe máy; có đoạn không thể đi được xe, các thầy - cô giáo phải xuống dắt bộ, khiêng xe. Đường đi gian khó là vậy, song vượt lên trên tất cả, các thầy - cô giáo vẫn miệt mài “bám bản” để bảo đảm công tác giảng dạy tại đây.
Cô Phan Thị Bẩy, giáo viên Trường Phổ thông Dân tộc bán trú Tiểu học Trung Chải - một trong những người có thâm niên dạy học ở các điểm trường lẻ chia sẻ: “Để duy trì tỷ lệ chuyên cần trong mùa đông, công tác dân vận rất quan trọng. Giải pháp thiết thực là giúp người dân vượt khó đưa con em đến trường đều đặn, đồng thời, chăm lo bữa ăn, giấc ngủ để tăng sức đề kháng cho các em”.
Những nỗ lực thầm lặng của các thầy - cô giáo vùng cao đã tạo nên “sợi dây” kéo học sinh đến lớp, bất chấp thời tiết khắc nghiệt.
Trường Phổ thông Dân tộc bán trú Tiểu học Pa Cheo, xã Bản Xèo có 1 điểm trường chính và 5 điểm trường lẻ. Việc duy trì chuyên cần được thực hiện bằng nhiều giải pháp sáng tạo. Kết quả, tỷ lệ chuyên cần đạt từ 98,5 % trở lên.
Ở điểm trường chính, mô hình trường bán trú giúp việc chăm lo đời sống học sinh được đảm bảo. Khu bán trú 4 tầng khang trang, các phòng ở khép kín, chăn ấm, điều kiện sinh hoạt được đầu tư đầy đủ. Bữa ăn bán trú được chăm chút cả về dinh dưỡng lẫn chất lượng giúp học sinh có sức khỏe tốt, yên tâm học tập.
Cô giáo Triệu Thị Hoa Đào - Phó Hiệu trưởng nhà trường, cho biết: “Địa bàn rộng, các thôn bản đều khó khăn, nên chúng tôi xác định phải phối hợp thật chặt với cơ sở. Ngay từ đầu năm học, trường tham mưu chính quyền địa phương và phối hợp trưởng thôn để tuyên truyền, vận động cha mẹ cho con đến lớp, duy trì sĩ số”.
Cùng chung quan điểm, anh Lý A Mình - Trưởng thôn Bản Giàng (xã Bản Xèo), chia sẻ: “Thôn luôn đồng hành với nhà trường, thường xuyên đến từng hộ gia đình để vận động, nhắc nhở cha mẹ đưa con đi học đúng giờ. Chúng tôi coi việc đưa trẻ đến trường, chăm lo trẻ là nhiệm vụ của cộng đồng, không phải của riêng nhà trường”.
Còn với xã vùng cao, biên giới Mường Khương, nơi có 9 trường bán trú với hơn 1.000 học sinh dân tộc thiểu số - mô hình trường bán trú được ví như “ngôi nhà thứ hai” của các em. Hoạt động chăm sóc, giáo dục tại đây không chỉ bảo đảm đời sống mà còn nâng cao kỹ năng, nhận thức cho học sinh.
Tại Trường Phổ thông Dân tộc bán trú Tiểu học & THCS Tung Chung Phố, các hoạt động ngoại khóa về phòng, chống cháy nổ, an toàn bán trú được tổ chức thường xuyên. Học sinh được hướng dẫn cụ thể, dễ hiểu, giúp các em biết tự bảo vệ mình và bạn bè.
Thầy Tăng Duy Chinh - Hiệu trưởng nhà trường, cho biết: “Trường nằm giữa núi rừng, cách xa khu dân cư, trong khi số lượng học sinh bán trú đông, vì vậy, việc bảo đảm an toàn luôn được đặt lên hàng đầu. Chúng tôi xây dựng lịch trực giáo viên khép kín, phối hợp với Công an xã tuyên truyền an ninh, an toàn trường học. Mục tiêu hàng đầu là đảm bảo học sinh được quan tâm, an toàn khi đến trường”.
Em Thền Sử Phi - học sinh lớp 8A1, Trường Phổ thông Dân tộc bán trú Tiểu học & THCS Tung Chung Phố chia sẻ: “Em ở xa nhưng khi ở bán trú, thầy cô chăm lo từ bữa ăn đến giờ học. Sự quan tâm ấy khiến em có thêm động lực, vươn lên trong học tập”.
Không chỉ chăm lo đời sống vật chất, để duy trì sĩ số, các trường học vùng cao còn tích cực tổ chức các hoạt động ngoại khóa, đưa văn hóa truyền thống vào dạy học. Từ học thêu thổ cẩm, sưu tầm, trưng bày văn hóa dân tộc, đến học múa dân gian..., tất cả giúp các hoạt động giảng dạy trở nên hấp dẫn hơn, khuyến khích học sinh đến trường đều đặn.
Thầy giáo Bùi Quang Tấp - Phó Hiệu trưởng phụ trách Trường Phổ thông Dân tộc bán trú THCS Thanh Bình, xã Mường Khương cho biết: “Chúng tôi thành lập đội tự quản để học sinh bán trú tự rèn luyện và hỗ trợ nhau. Đồng thời, nhà trường cũng đẩy mạnh hoạt động ngoại khóa, văn nghệ, thể thao, mở các câu lạc bộ giúp học sinh rèn luyện thể chất, gắn kết bạn bè, thu hút học sinh đến trường”.
Năm học 2025 - 2026, toàn tỉnh Lào Cai có 175 trường phổ thông dân tộc bán trú, 147 trường phổ thông có học sinh bán trú, với hơn 60.000 học sinh theo học. Sự quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất, dinh dưỡng và đời sống tinh thần cho học sinh vùng khó giúp duy trì tỷ lệ chuyên cần luôn đạt trên 95%. Đây cũng là động lực để ngành giáo dục phát triển, góp phần thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục miền núi.
Tô Dung