Hôm 12-9, cơ quan công an đã khởi tố vụ án, khởi tố 5 bị can, trong đó có cán bộ kiểm lâm, liên quan đến việc “bứng” bằng lăng cổ thụ khỏi rừng ở Gia Lai (1). Đây không phải vụ đầu tiên. Báo chí trong nhiều năm qua liên tục phản ánh các vụ vận chuyển, buôn bán bằng lăng rừng và “cơn sốt” bằng lăng rừng cổ thụ làm cây cảnh chưa hề giảm nhiệt.
Khoảng chục năm trở lại đây, chúng ta ngày càng dễ dàng thấy các loài cây cảnh quen thuộc như khế, lộc vừng, duối… và đặc biệt là cây bằng lăng trong khuôn viên của những khu nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, đền thờ miếu mạo, công sở, trường học...
Trong đó, những loại cây như khế, lộc vừng hay duối có thể trồng rộng rãi hoặc mọc tự nhiên ở nông thôn từ còn bằng lăng thì lại khác.
Việt Nam có hơn 50 loài, khoảng chục loài phổ biến được trồng bằng hạt, cung cấp bởi công ty công viên, cây xanh. Đây là những cây nhỏ tuổi thường thấy trên đường phố vào mùa hè cho hoa màu tím đặc trưng. Với những cây bằng lăng cổ thụ, đường kính tới nửa thước, tuổi vài chục năm hay cả trăm năm, có thế đẹp - gốc lạ đang hiện diện ở nhiều nơi thì khó có thể nói là không phải “bứng” từ rừng.
Phong trào dùng bằng lăng rừng làm cây cảnh đã tạo ra thị trường ngầm mà trị giá hàng trăm triệu đồng mỗi gốc, kéo theo là “bứng” trộm. Không ít vụ vận chuyển trái phép bị phát hiện, người vi phạm khai bán 200-300 triệu đồng/gốc. Khi nhu cầu không giảm, nguồn cung từ rừng càng bị khai thác triệt để.
Vấn đề không chỉ là “cơn sốt” làm mất rừng, phá rừng mà còn là động cơ kinh tế: giá trị mỗi gốc cây vượt xa tiền lương cán bộ kiểm lâm, nhân viên bảo vệ rừng hay thu nhập người dân ven rừng, kích thích hành vi “bứng” trộm của họ. Bên cạnh đó, nhu cầu cây cảnh của dự án du lịch, công sở chưa gắn với trách nhiệm truy xuất nguồn gốc. Chủ đầu tư trường học, bệnh viện, công sở thường quan tâm đến cảnh quan nhưng ít để ý nhà thầu phụ lấy cây cảnh từ đâu. Hệ quả là hàng loạt bằng lăng cổ thụ trên “rừng sâu núi cao” dễ dàng xuất hiện trong khuôn viên mà ai nhìn cũng trầm trồ.
Đã đến lúc cơ quan chức năng không chỉ siết chặt khai thác, vận chuyển mà còn bắt buộc truy xuất nguồn gốc. Công khai nguồn gốc sẽ giúp phân biệt cây gieo hợp pháp với cây “bứng” từ rừng, đồng thời nâng cao trách nhiệm người mua. Một khu du lịch hay trường học mới xây vài năm mà có cây bằng lăng hàng chục năm tuổi với thế đẹp trong khuôn viên, nhìn bằng mắt thường ai cũng biết không phải trồng bằng hạt. Tuy nhiên, cơ chế quản lý hiện tại lại chưa đủ để buộc đơn vị sử dụng chứng minh điều đó.
Nếu có chính sách “chứng chỉ nguồn gốc” cho cây rừng nhiều năm tuổi như bằng lăng, trồng làm cảnh, tương tự như chứng chỉ gỗ hợp pháp, có thể là giải pháp lâu dài, buộc những nơi có nhu cầu cây bằng lăng nói riêng hay cây rừng nói chung. Khi lợi ích kinh tế của việc mua cây “bứng” từ rừng trở nên rủi ro, nhu cầu thị trường sẽ tự điều chỉnh.
Cũng đã đến lúc xem xét lại chính sách trồng cây xanh làm cảnh quan ở khu du lịch, công sở. Thay vì chạy theo “mốt” bằng lăng cổ thụ thì nên khuyến khích sử dụng cây ươm từ vườn, nguồn giống kiểm soát, gắn cam kết bảo tồn đa dạng sinh học, chống phá rừng. Đây là cách làm văn minh để thể hiện trách nhiệm với môi trường và giảm áp lực lên rừng tự nhiên.
(1) https://cand.com.vn/Ban-tin-113/khoi-to-5-doi-tuong-lien-quan-vu-bung-bang-lang-co-thu-ra-khoi-rung-i781175/
Hồng Văn