Minh họa: Trần Thắng
Từ khi có chút tiếng tăm, quyền lực, hương quản Mẹo trở nên trái tính trái nết. Ra đường ông được mọi người vị nể, xun xoe đã đành. Về nhà, ông càng tỏ ra mình quan trọng. Ông ăn cơm riêng mâm ở gian nhà trên. Út Thiệt cô đơn, lầm lũi trong núi công việc không tên của đồng ruộng, bếp núc. Người ta chỉ chú ý đến Thiệt khi cái bụng của cô không còn giấu được dưới làn áo bà ba thôn nữ. Hương quản Mẹo nổi trận lôi đình, trút xuống Thiệt những trận đòn thừa sống thiếu chết rồi đuổi cô ra khỏi nhà. Vì danh dự của người bác, Út Thiệt ra đi…
Nhưng đi đâu? Chỉ có mom sông rìa làng là nơi cô có thể nương tựa, vì nó là phần đất đầu ghềnh cuối bãi còn nhão nhoét bùn sình bị quên lãng. Thời còn bé đi chăn trâu cho bác, Út Thiệt đã từng lang thang ở đây. Mom sông là phần đất bồi chưa hình thành, với những cây bần trụ lại nơi đầu bãi, vươn những chiếc rễ lên trời, mặc cho gió vùi sóng dập. Và lục bình ken đặc, nở những bông hoa màu tím đẹp đến nao lòng. Giờ đây bụng mang dạ chửa, đôi chân ì ộp dưới lớp phù sa ngập quá đầu gối, Út Thiệt khó nhọc tiến từng bước ra mom sông. Nỗi buồn tủi dâng lên khiến mắt cô cay xè.
Cái quẫy đạp của đứa bé trong bụng khiến cô cắn chặt răng, lau nước mắt. Cô không còn đủ thời gian để buồn. Út Thiệt ngắm thế đất. Cô tất bật lặng lẽ dựng lên ngôi nhà sàn ở mom sông. Thật ra, đó là một túp lều mọc trên chạc ba những góc bần. Cô lầm lũi phát hoang cấy lúa, lầm lũi đặt những lưỡi cuốc đầu tiên đắp bờ bao níu giữ lại những hạt phù sa. Lầm lũi từng ngày, mồ hôi trộn với nước mắt, Út Thiệt đã dựng cho mình một cơ ngơi trong lãng quên và cô độc.
Và đêm đêm, dưới ngọn đèn dầu mù u vàng vọt, leo lét, cô may những chiếc áo sơ sinh, tã lót cho con. Cô nuốt lại những giọt nước mắt, thì thầm những lời hòa trong tiếng sóng của dòng sông mẹ đang thao thiết chảy. Sống! Tiếng gọi ấy vang lên mãnh liệt và thống thiết từ trái tim đau khổ của người mẹ…
***
Út Thiệt chuyển dạ sinh con trong tiếng trống nô nức của làng đón Tết. Năm nay làng cô ăn Tết lớn vì được mùa, vì làng nhận được “mề đay” của quan trên. Không hiểu sao trong cơn đau quằn quại, Út Thiệt vẫn hình dung ra cảnh hương chủ Tam ngồi vểnh râu cầm chầu, đôi mắt ti hí hấp háy trước sắc đẹp lộng lẫy của cô đào đóng vai chánh trong vở “Hồ nguyệt cô hóa cáo”. Kế đó là hương cả, hương quản… Hàng chức sắc tranh nhau giành miếng thịt giữa làng. Nhưng miếng thịt giữa làng bằng một sàng xó bếp là danh dự, ngôi thứ. Vì những thứ đó mà cô phải ra mom sông…
Gió từ lòng sông hây hẩy thổi vào túp lều bé nhỏ, trống hoác của Út Thiệt. Cô vừa đau bụng vừa lạnh run. Lúc đầu, cô rên lên từng chặp. Nhưng một lúc sau, cô cắn chặt răng cố chịu đựng cơn đau. Những cơn co ngắn dần, càng lúc càng mãnh liệt. Những cơn đau thúc giục cô dồn hết sinh lực cho một cơn rặn dài. Cơn rặn mà cô có cảm giác một phần của cơ thể bị bứt lìa khỏi thân…
Một cái gì bật ra, rời khỏi cô, nhẹ hẫng. Cô mệt lả, gục xuống sàn nhà. Tiếng khóc! Út Thiệt chờ đợi tiếng khóc chào đời của đứa con vang lên. Nhưng đáp lại sự mong đợi của cô chỉ có tiếng gió rú rít, thét gào trên những tán cây. Cô cố chống tay nhỏm dậy. Đập vào mắt cô là chiếc bọc tròn màu xám. Cô khẽ kêu lên: “Trời, bọc điều!”. Cái sinh linh bé bỏng cần sự trợ giúp ấy không cho phép cô gục xuống. “Cần phải xé cái bọc ra!”. Nhưng chợt cô co rúm người vì sợ hãi. Những câu chuyện của những bà thợ cấy về sinh nở loáng thoáng trên cánh đồng trở về tâm trí Út Thiệt. Bàn tay tháo vát, mềm mại của cô cũng đã từng đỡ sanh cho những chú bê, chú nghé ra đời. Cô đã từng thò tay vào miệng lấy nhớt dãi, lột móng chân cho chúng… Tất cả những chuyện “ thấy ghê” ấy, kỳ lạ thay, giờ đây trở nên thật gần gũi. Chúng trỗi dậy, mách bảo cô hành động, giúp cô thêm phần can đảm…
Cô xé cái bọc ra, nâng trên tay một bé trai tím tái vì ngộp. Cô thổi vào miệng, vào mũi bé, hà hơi, tiếp sức. Lời kêu cứu khẩn thiết của cô vang lên trong túp lều: “Có ai đó không? Bà con cô bác ơi. Có ai khô…ng!”. Chỉ có tiếng sóng vỗ rì rào của dòng sông mẹ và tiếng gió không nguôi đáp lại lời cô. Cô quýnh lên, móc nhớt dãi trong miệng bé, rồi lại mút, lại thổi… Đứa bé cựa quậy, rồi một tiếng khóc yếu ớt vang lên. “Sống rồi!”. Út Thiệt reo lên, ứa nước mắt vì mừng rỡ.
***
Chú bé Thà dần lớn lên, cao vồng, chắc lẳn. Dần dà, chú đã đỡ đần cho mẹ những công việc nặng nhọc. Mom sông ngày thêm trù phú bởi sự giao hòa của hoa lá, chim muông, gió trăng, trời nước… Cậu bé Thà ghét cay ghét đắng những ông “hương” trong làng. Họ bao giờ cũng quần áo bảnh chọe, vẻ hách dịch, oai quyền. Lấy cớ đi khám điền thổ, họ sục đến bất cứ ngõ ngách nào. Mom sông đầy lúa ma hoang dại của mẹ chú ngày nào cũng không thoát khỏi những đôi mắt cú vọ của mấy ông “hương”.
Chú bé Thà ghét nhất là tên hương quản Tỵ để râu con kiến. Hắn luôn lấy cớ coi sóc việc an ninh xã, sục sạo vào mom sông của mẹ con chú vào bất cứ lúc nào. Một lần, hắn ôm gương mặt sưng vù vì tổ ong vò vẽ bay túa ra, đuổi theo hắn mà đốt. Hắn biết rõ thủ phạm gây ra mọi sự cố trục trặc, đáng ghét chính là chú bé Thà. Chú tuy còn bé nhưng quyết liệt bảo vệ mẹ. Không ăn được thì đạp đổ, dần dà, chúng đâm ra ghét cay đắng mom sông. Vào một ngày cuối năm, bà Thiệt nhận được trát đòi trình làng. Tên hương bộ dí quyển sổ dày cộp vào mặt bà truy thu tiền thuế. Bà Thiệt há hốc mồm, ngơ ngác. Bao nhiêu là mồ hôi nước mắt, khó nhọc, họ chẳng cần biết tới. Bây giờ làng cho truy thu thuế, bà chẳng biết lấy gì mà nộp. Thân phận bà góa, thấp cổ bé họng, chịu bao nhiêu nỗi o ép, Út Thiệt chỉ biết kêu trời, mặc cho những giọt nước mắt uất ức tuôn trên má…
Ấy cũng là lúc Nhật đảo chính Pháp. Rồi chính quyền thuộc về Cách mạng. Thà đã trở thành chàng trai vạm vỡ. Anh gia nhập Thanh niên tiền phong bằng cả bầu máu nóng của tuổi trẻ. Anh đẹp lạ lùng trong chiếc quần “soóc”, áo sơ mi, chiếc nón bàng tập võ thuật, diễn thuyết, hòa vào đoàn biểu tình mừng ngày độc lập. Anh nói với mẹ, điều mà bà Thiệt không bao giờ ngờ đến:
- Mẹ ơi, đất nước mình đã độc lập!
Bà run lập cập hỏi lại:
- Độc lập rồi hả, là sao hả con?
- Là 80 năm đô hộ của bọn thực dân đã bị đổ nhào. Đất nước mình có quốc kỳ rồi mẹ à!
- Quốc kỳ là gì hả con?
- Là… cờ Tổ quốc. Mẹ thiệt là…
Anh Thà gắt. Lá cờ Tổ quốc đỏ thắm có ngôi sao vàng năm cánh ở giữa bay phất phới trên nóc Nhà Việc, nơi bà từng bị đòi đến để truy thu thuế. Bà Thiệt nghe lùng bùng bên tai về lời giải thích của Thà. Bà không hiểu được biểu tượng của màu đỏ, màu vàng, ngôi sao là gì. Bà chỉ biết đó là lá cờ Tổ quốc. Và lá cờ ấy có một sức mạnh thiêng liêng, đến nỗi con trai bà sẵn sàng hy sinh để bảo vệ nó. Bà ngơ ngác nhìn con trai. Bà không nghĩ mấy năm vắt chày ra nước cho anh học hết lớp nhứt trường làng lại mang đến điều ích lợi không ngờ. Bà ngỡ ngàng nhìn con trai. Anh hiểu biết và chững chạc. Trước sự phấn khích của Thà, trước lá cờ Tổ quốc bay phất phới trong gió thu, nước mắt bà trào ra vì vui sướng. Độc lập rồi! Có nghĩa là những người phụ nữ từng dại dột, nhẹ dạ như bà không phải ra mom sông mà ở, không phải đóng thuế vô tội vạ, không còn những “ông hương” tìm mọi cách o ép đòi bà phải cho họ thứ này thứ khác. Một lần nữa, bà không ngăn được sự đa cảm, lắp bắp thốt lên:
- Độc lập, độc lập thiệt rồi hả con?
***
Gần 50 năm sau ngày anh Thà ngã xuống, Bà mẹ Việt Nam Anh hùng Nguyễn Thị Thiệt chợt thấy lại ngày bụng mang dạ chửa côi cút ngoài mom sông. Mom sông nơi bà đến ngày càng bồi. Bên kia sông thì lở. Lục bình vẫn nở tím mom sông. Bà thở dài: “Sông có khúc, người có lúc”; chỉ lá cờ Tổ quốc là vẫn tươi thắm rực rỡ như ngày đầu tiên bà nhìn thấy trên nóc Nhà Việc. Bà chợt nhìn thấy con trai trở về với gương mặt trẻ trung, đôi mắt sáng long lanh và nụ cười mở rộng khoe mấy chiếc răng khểnh, khi anh vui sướng thốt lên: “Mẹ ơi, độc lập rồi! Mẹ có nhìn thấy không, kìa, lá cờ Tổ quốc”.
Nhà văn Trầm Hương