Ba thập kỷ qua, tốc độ đô thị hóa của Việt Nam được xem là một trong những hiện tượng đáng chú ý của châu Á. Nhiều khu đô thị, dân cư, khu công nghiệp, các công trình cao tầng mọc lên theo nhu cầu phát triển kinh tế cùng sự gia tăng dân số đến với các đô thị lớn. Bên cạnh đó là một hệ quả ngày càng rõ rệt: tần suất và mức độ ngập lụt, triều cường, sạt lở gia tăng sau những đợt bão lũ vừa qua ở một số đô thị lớn như Hà Nội, TP HCM, đặc biệt là ở miền Trung và Đà Nẵng. Điều này cho thấy sự tác động không chỉ đơn thuần là do “thiên tai” mà còn biểu hiện của tính chủ động trong việc hoạch định chiến lược, kế hoạch, quy hoạch chưa sát với thực tế của quy luật tự nhiên, đất, nước, dòng chảy, biến đổi khí hậu. Bài viết này đặt ra câu hỏi: nếu ta nhìn lại các cấp độ Quy hoạch từ các chuyên ngành bằng lăng kính khoa học: vật lý - địa chất - thủy văn - sinh thái, liệu có thể rút ra nguyên lý để giúp chúng ta sống hài hòa hơn với thiên nhiên và giảm thiểu rủi ro ?
Quy hoạch phải được nhìn như một chỉnh thể thống nhất
Trong nhiều năm, quy hoạch đất đai, hạ tầng kỹ thuật, giao thông, thủy lợi, môi trường, không gian đô thị, nông thôn… được thực hiện còn thiếu tính kết nối và xung đột về chức năng. Một khu dân cư mới có thể mọc lên trên vùng trữ nước tự nhiên; một tuyến đường cao hơn nền lũ trở thành “con đê cứng” chặn dòng thoát nước. Hậu quả là đã nhân tạo hóa của quá trình tự nhiên, thiệt hại tăng lên sau mỗi mùa mưa bão.
Nội dung dự báo trong các đồ án Quy hoạch thường được coi nhẹ do năng lực của tư vấn và thiếu dữ liệu đầu vào, thậm chí có những đồ án Quy hoạch quan trọng còn bỏ qua dự báo. Việc xác lập một hệ thống dữ liệu tích hợp, trong đó mọi quy hoạch có thể dùng chung dữ liệu thủy văn, địa chất, dân cư, hạ tầng và môi trường là rất cần thiết. Các quy hoạch cấp trung ương và địa phương phải tương tác hai chiều, được cập nhật định kỳ theo dự báo biến động khí hậu và thay đổi hiện trạng.
Cảnh báo từ TP.HCM và Hà Nội: 
Tại TP.HCM, nhiều năm liên tiếp, các khu vực địa danh cũ thuộc quận 7, 8, Bình Thạnh, Thủ Đức, Nhà Bè bị ngập sâu 0,3–0,8 m chỉ sau một cơn mưa lớn hoặc đợt triều cường. Độ lún trung bình tại TP.HCM đạt 1,6–2,2 cm/năm, có nơi tới 5 cm/năm, cao gấp đôi tốc độ dâng của mực nước biển. Một số vùng trũng như Bình Chánh, Nhà Bè, Thủ Đức đã thấp hơn mực nước triều cao nhất 30–50 cm. Nếu không có biện pháp khả thi thì đến năm 2030 khoảng 15% diện tích TP.HCM có nguy cơ ngập thường xuyên.
Nghiên cứu tại Hà Nội cho thấy: ở vùng ngoài đê bảo vệ sông Hồng, khi mức cảnh báo lũ ở trạm Long Biên đạt cấp 1 (9,5 m) thì có tới khoảng 40,17% diện tích nghiên cứu bị ngập; khi đạt cấp 2 (10,5 m) thì khoảng 54,08%; khi cấp 3 (11,5 m) thì lên tới 79,75 Nói cách khác: nếu quy hoạch không tính tới mực nước lũ và hành lang thoát nước mặt thì khu vực dân cư nằm ngay bên trong có thể bị ngập sâu bất cứ lúc nào.
Vấn đề không nằm ở mưa mà ở hành lang thoát lũ sông Hồng và hệ thống tiêu nước phía Tây bị thu hẹp. Hàng chục km² vùng trũng ven sông như Thanh Trì, Hoàng Mai, Đông Anh, Đan Phượng đã bị đô thị hóa nhanh, làm giảm khả năng điều tiết nước tự nhiên.
 Báo cáo của Bộ NN&PTNT (2023) cho thấy đường thoát lũ sông Nhuệ – Tô Lịch chỉ đạt 40–50% công suất thiết kế, khiến lũ nội đô ngày càng nặng.
Những con số ấy không chỉ phản ánh biến đổi khí hậu, mà còn là hệ quả trực tiếp của sai lệch trong việc lập, thực thi quy hoạch và giám sát thực hiện thiết kế và thi công hạ tầng.
Từ Trung ương đến địa phương: thống nhất chỉ đạo, phân cấp có trách nhiệm
Không ít địa phương hiện nay vẫn xem quy hoạch là công cụ “xin – cho” phục vụ ngắn hạn cho đầu tư, hơn là công cụ định hướng phát triển bền vững.
 Trong khi đó, ở cấp trung ương, các chủ trương đúng đắn về thích ứng biến đổi khí hậu lại thiếu cơ chế phản hồi và giám sát từ địa phương.
Để khắc phục, cần thiết lập một chu trình điều hành mở, trong đó:
Trung ương hoạch định các tiêu chí tối thiểu về an toàn ngập, cây xanh, không gian nước; kiểm tra hậu kiểm.
Địa phương được phân quyền điều chỉnh cục bộ nhưng phải công khai dữ liệu, minh bạch số liệu và chịu giám sát độc lập;
Các Viện nghiên cứu, Hiệp hội nghề nghiệp và phương tiện Truyền thông tham gia phản biện.
Khi đó, quy hoạch mới trở thành công cụ sống, linh hoạt và có khả năng thích ứng.
Kết nối ba trụ cột: Quy hoạch – Thiết kế – Vận hành
Từ cấp đô thị đến nông thôn, khoa học hiện đại cho chúng ta các nguyên lý có thể xem là “luật bất biến” trong thiết kế bền vững:
Giữ được diện tích thấm tự nhiên (không bê tông hóa hoàn toàn) để nước mưa được hấp thụ và phân tán.
Bảo vệ hành lang nước: sông, kênh, ao hồ , không bị lấp/thu hẹp , để nước thoát dễ dàng và không bị dồn ứ.
Đảm bảo rằng hạ tầng thoát nước và hệ thống đê kè được thiết kế với kịch bản mực nước và lũ cao hơn lịch sử (do biến đổi khí hậu) và kết hợp với việc sụt lún nếu có.
Phối hợp liên ngành: Địa chất (khảo sát nền đất), Thủy văn (dòng chảy, mưa cực đoan), Quy hoạch đô thị (hành lang, thấm nước, cây xanh) và Cộng đồng (nhận thức và hành động phòng ngừa).
 Ví dụ cụ thể: nếu một đô thị biết tính toán sụt lún 2–5 cm/năm, biết mực nước biển sẽ dâng và biết rằng bê tông hóa toàn bộ sẽ làm mất khả năng thấm, thì có thể đưa ra chính sách như: không được lấp ao hồ, phải giữ 30% diện tích là cây xanh/hồ điều tiết, tăng độ cao mặt đường, và hạn chế khai thác nước ngầm mạnh.
Sửa đổi kịp thời hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn về hạ tầng kỹ thuật với những nội dung không còn phù hợp với thực tế hiện trạng và vùng miền.
Khi bỏ qua những khoa học này, kết quả là những khu đô thị hoặc khu dân cư sẽ luôn đối mặt với trạng thái thiếu bền vững mỗi khi có những cơn mưa lớn, thủy triều cao hoặc thiên tai. Tất cả đều có thể biến thành thảm họa.
Các trụ cột chống ngập đô thị bền vững
Trả lại không gian cho nước, bảo vệ và tái tạo hành lang sông, kênh rạch, ao hồ; không bê tông hóa toàn bộ mặt đất; chủ động kiểm soát diện tích thấm nước ở trong các khu đô thị, dân cư.
Tích hợp bản đồ địa chất ,thủy văn ,mực nước lũ ,sụt lún vào mọi cấp độ quy hoạch: vùng, đô thị, khu dân cư. Mỗi dự án phải có đánh giá nền đất và khả năng thoát nước rõ ràng. Dự báo được khả năng mưa lũ ở các vùng miền để tính toán khả năng thoát nước một cách chủ động.
Phát triển đô thị theo nguyên tắc “sống chung với nước”: thay vì chống lại nước, các khu đô thị và dân cư đều phải tính đến có hồ điều hòa, không gian thấm nước, không gian xanh, độ cao nền và mặt đường được tính tới sụt lún + dâng nước. Tất cả phải được tính toán trên cơ sở khoa học.
Văn bản pháp luật cần cụ thể chi tiết trong giám sát xây dựng công trình hạ tầng: thi công công trình ngầm, san lấp ao hồ, kênh rạch, khai thác nước ngầm.
Ứng dụng công nghệ số, dữ liệu và mô hình dự báo, sử dụng GIS, cảm biến, mô hình thủy văn để chuẩn bị cho kịch bản mưa cực đoan, nước dâng, lũ tần suất cao.
Từ những nội dung trên chúng ta không chỉ giảm thiểu rủi ro ngập mà còn xây dựng được môi trường sống ổn định, an toàn và phát triển bền vững. Thiên nhiên không chờ chúng ta đủ tốt cơ sở hạ tầng mới nhả nước, nó hoạt động theo quy luật của nó. Điều quan trọng là chúng ta chọn sống đúng nơi, đúng cách và phù hợp với quy luật của tự nhiên.
Xây dựng văn hóa quy hoạch, từ người dân đến nhà quản lý
Quy hoạch không chỉ là kỹ thuật của giới chuyên môn mà cần phải có sự tham gia thực chất của cộng đồng. Đây cũng là văn hóa ứng xử của toàn xã hội đối với không gian sống.
 Người dân cần được tiếp cận thông tin quy hoạch minh bạch, dễ hiểu; Doanh nghiệp khi thấy lợi ích lâu dài của phát triển Xanh, cùng với quy định của pháp luật thì cũng sẽ tự nguyện đầu tư theo hướng bền vững; Chính quyền cần coi quy hoạch là lời cam kết dài hạn với cộng đồng.
Một xã hội có văn hóa Quy hoạch sẽ không chạy theo “dự án” mà cùng kiến tạo môi trường sống an toàn, nhân văn và thích ứng.
Điều chỉnh để sống hài hòa với thiên nhiên
Một số quốc gia đã đi trước Việt Nam trong việc “sống chung với nước” thay vì chống lại nó. Hà Lan là ví dụ điển hình: hơn 60% lãnh thổ nằm dưới mực nước biển, nhưng quốc gia này đã biến nguy thành cơ hội nhờ quy hoạch tổng thể dựa trên thủy văn học. Thay vì xây đê kéo dài khắp nơi, họ thiết kế công viên ngập nước và khu dân cư nổi, vừa bảo vệ dân sinh vừa tạo cảnh quan sinh thái. Tương tự, Singapore đầu tư hệ thống hồ điều hòa và mặt thấm sinh học, giúp giảm 30–40% lượng nước mưa chảy tràn trong đô thị. Cả hai cho thấy: hiểu đúng quy luật tự nhiên là nền tảng của đô thị bền vững.
Nhìn lại quá trình phát triển đô thị những năm qua ở Việt Nam, đã đến lúc cần điều chỉnh mạnh mẽ cách thực thi quy hoạch từ đô thị đến nông thôn, từ pháp lý đến tư duy, từ kế hoạch đến hành động.
Quốc gia có thể giàu lên nhờ đô thị hóa, nhưng chỉ bền vững khi mỗi đô thị biết sống chung với nước, tôn trọng địa hình và quy luật tự nhiên. Đó là tầm nhìn mà quy hoạch thế kỷ XXI cần hướng tới: thích ứng, thông minh và nhân văn.
Pv