TS Nguyễn Đình Cung đã nhấn mạnh điều này tại Tọa đàm “Quốc hội và hoạt động lập hiến, lập pháp - Từ Hiến pháp 1946 đến cải cách thể chế trong kỷ nguyên phát triển mới” do Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức, sáng nay, 29/12.
Các đại biểu tham dự tọa đàm. Ảnh: Duy Thông
Phát biểu tại tọa đàm, TS Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, cho rằng công cuộc Đổi mới của Việt Nam được xác định bắt đầu từ năm 1986, gắn với Đại hội VI của Đảng.
TS Nguyễn Đình Cung cho rằng, tại Đại hội VI năm 1986, việc tuyên bố từ bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp để chuyển sang xây dựng một thể chế kinh tế mới là quyết định mang tính bước ngoặt.
Tuy nhiên, ở thời điểm đó, Việt Nam vẫn chưa khẳng định một cách rõ ràng việc chuyển sang nền kinh tế thị trường; sự chuyển đổi diễn ra theo từng bước, vừa làm vừa tìm tòi, chưa được xác lập đầy đủ và minh thị về mặt lý luận.
Dù vậy, việc từ bỏ cơ chế cũ đã mở ra không gian cho sự tồn tại và phát triển của nhiều thành phần kinh tế. Vì thế, ngay cả khi Hiến pháp năm 1980 vẫn còn hiệu lực, Quốc hội cũng đã ban hành những đạo luật có ý nghĩa rất quan trọng.
Đáng chú ý là Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 nhằm thu hút nguồn lực từ bên ngoài, tiếp đó là Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân, tạo lập nền tảng pháp lý ban đầu cho sự hình thành và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam.
TS Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương phát biểu tại tọa đàm. Ảnh: Duy Thông
Theo TS Nguyễn Đình Cung, thực tế này cho thấy rằng, mặc dù Hiến pháp năm 1980 vẫn quy định mô hình kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, nhưng Quốc hội thời điểm đó đã vận dụng tinh thần Đổi mới năm 1986 để ban hành những đạo luật mang tính đột phá, tạo tiền đề quan trọng cho sự chuyển đổi thể chế sau này.
Bước ngoặt về thể chế được xác lập rõ ràng với Hiến pháp năm 1992. Đây là thời điểm Việt Nam thể chế hóa đầy đủ đường lối Đổi mới, chính thức xác lập mô hình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, sau này được gọi là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ngay sau Hiến pháp năm 1992, Quốc hội đã cụ thể hóa các quy định hiến định bằng việc xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật điều chỉnh các thành phần kinh tế.
Trong giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2005, pháp luật kinh tế Việt Nam được xây dựng theo hướng phân biệt theo từng thành phần kinh tế.
Cụ thể, Luật Đầu tư nước ngoài tiếp tục được sửa đổi; Luật Khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994 được ban hành nhằm tạo sự cân bằng giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; tiếp đó là Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995, Luật Hợp tác xã năm 1996 và đặc biệt là Luật Doanh nghiệp năm 1999, có hiệu lực từ năm 2000, hợp nhất Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân.
Đồng thời, TS Nguyễn Đình Cung cũng nhấn mạnh rằng, trong khoảng một thập niên, xét trên phương diện thể chế kinh tế, Quốc hội đã xây dựng và ban hành được một hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ, từng bước hình thành khung khổ pháp lý cho sự phát triển của các thành phần kinh tế, qua đó hoàn thiện mô hình nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Theo TS Nguyễn Đình Cung, việc bám sát đường lối Đổi mới năm 1986 và Hiến pháp năm 1992 trong hoạt động lập pháp đã giúp đặt nền móng khá vững chắc, tương đối toàn diện cho sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Mạnh Hưng