Năm 2025 là năm về đích trong việc thực hiện mục tiêu giai đoạn 2021-2025 nhưng cũng được xem là năm mở đầu và tạo động lực cho việc thực hiện các mục tiêu tăng trưởng của giai đoạn tiếp theo.
Lần đầu tiên, Chính phủ ban hành riêng một nghị quyết về mục tiêu tăng trưởng của các ngành, lĩnh vực và địa phương để bảo đảm mục tiêu tăng trưởng cả nước 8% trở lên trong năm 2025. Hàng chục tỉnh, thành phố được giao chỉ tiêu tăng trưởng hơn 2 con số. Kỳ vọng lớn, nhưng nhiệm vụ cũng rất nặng nề, nhiều thách thức.
Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách tích cực nhằm hỗ trợ về vốn, giúp doanh nghiệp tiếp cận các nguồn vốn tốt nhất. Việc phát huy các nguồn lực, đặc biệt là nguồn vốn tín dụng đóng vai trò rất quan trọng. Hiện ngành ngân hàng đã sẵn sàng nhiều giải pháp, hướng vào những lĩnh vực tạo sức đột phá cho tăng trưởng.
Ông Trần Hoàng Ngân, đại biểu Quốc hội, trợ lý bí thư thành ủy TP.HCMPhát biểu tại hội thảo “Sử dụng vốn hiệu quả để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế", diễn ra sáng 28/2 tại TP.HCM.
Thực tế, mục tiêu GDP tăng 8% trở lên được đánh giá là rất thách thức. Song, việc đạt tốc độ tăng trưởng cao là điều kiện để Việt Nam trở thành quốc gia có mức thu nhập cao vào 2045 như mục tiêu đã đặt ra. Năm nay, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã đưa ra định hướng tăng trưởng tín dụng khoảng 16% và ước tính có hơn 2,5 triệu tỉ đồng được bơm vào nền kinh tế.
Phát biểu tại hội thảo “Sử dụng vốn hiệu quả để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế diễn ra sáng ngày 28/2 tại TP.HCM, ông Trần Hoàng Ngân, đại biểu Quốc hội, cho rằng, giai đoạn 2015-2019, kinh tế tăng trưởng khá trở lại 6,8-7%/năm, riêng hai năm 2018-2019 tăng trưởng trên trên 7,4%/năm. Sau đó gặp đại dịch COVID-19, kinh tế suy giảm sâu, hai năm 2020-2021 tăng trưởng 2,6%-2,9%/năm.
Để thực hiện mục tiêu trên, ông Ngân cho rằng nên kiên định thực hiện 3 đột phá chiến lược: thể chế, nhân lực, hạ tầng. Thể chế thông thoáng, thông minh. Cơ chế thu hút nhân lực chất lượng cao. Đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội đồng bộ. Đồng thời phát huy 3 động lực tăng trưởng truyền thống: đầu tư, tiêu dùng và xuất khẩu.
Trong đó, về đầu tư, theo mục tiêu cũ năm 2025 tăng trưởng 6,5-7%/năm với tổng vốn đầu tư xã hội là 171 tỷ USD, trong đó đầu tư công 33 tỷ USD. Mục tiêu mới tăng trưởng 8%, tổng vốn đầu tư xã hội là 174 tỷ USD trong đó đầu tư công 36 tỷ USD, tăng thêm 9%.
Theo số liệu thống kê trước đây, khi đầu tư công tăng thêm 10% sẽ góp phần tăng trưởng GDP khoảng 0,6%. Vì khu vực dân doanh chiếm trên 55% tổng vốn đầu tư xã hội, do đó theo ông Ngân phải có gói giải pháp đồng bộ để huy động vốn, đầu tư từ khu vực dân doanh: giảm tiền thuê đất, phí, thuế, bảo lãnh tín dụng, lãi suất tín dụng hợp lý.
Để tăng trưởng nhanh, bền vững, ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát trong điều hành vĩ mô, ông Ngân cũng nêu ra 3 khuyến nghị. Chính sách tài khóa chặt chẽ, tiết kiệm chi thường xuyên, ưu tiên vốn đầu tư phát triển nhưng chú ý hiệu quả đầu tư công, không đầu tư dàn trải, dở dang, gây lãng phí… Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay cần tập trung quyết liệt tận dụng tài sản công, đất công (có phần mất kiểm soát) để đưa vào sử dụng, khai thác hoặc đấu giá để có vốn cho đầu tư phát triển...
Nợ công có thể phải tăng nhưng không để nợ công tăng nhanh như những năm trước đây (giai đoạn 2006-2011 bội chi cao trên 5%/năm, nợ công tăng nhanh 2001 là 36%/GDP, 2010 là 54-55% GDP…)
Chính sách tiền tệ linh hoạt theo mục tiêu tăng trưởng và lạm phát. Điều hành lãi suất theo lạm phát cơ bản (core inflation) đảm bảo chất lượng tín dụng không để khối u nợ xấu quay trở lại. Cung tiền và tăng trưởng tín dụng có kiểm soát, không để tăng quá cao như giai đoạn 2000-2010 (dư nợ tăng bình quân 30%/năm, kinh tế tăng trưởng 7,3%), cùng với nhập siêu, tỷ giá… lạm phát tăng cao (23% năm 2008, 18,6% năm 2011) dễ gây bất ổn kinh tế vĩ mô.
Đầu tư nghiêm túc (nhân lực, tài lực) cho công tác dự báo từ xa về kinh tế thế giới, địa chính trị, dịch bệnh, biến đổi khí hậu… để có giải pháp ứng phó kịp thời, linh hoạt... giảm tổn thất cho người dân và nền kinh tế.
Thùy Vinh