Khu khuôn viên đình Chèm. Ảnh: VGP/DA
Trải qua bao biến động, những hình ảnh quen thuộc như cây đa, giếng nước, sân đình vẫn in sâu trong tâm thức người Việt như biểu tượng thiêng liêng, gợi nhắc đến một nền văn minh nông nghiệp lúa nước đậm đà bản sắc.
Không phải ngẫu nhiên mà trong ca dao, tục ngữ, tranh dân gian hay trong ký ức dân gian, bộ ba “cây đa - giếng nước - sân đình” luôn xuất hiện như một tam giác văn hóa bất biến. Chúng vừa gần gũi trong đời sống hàng ngày, vừa mang ý nghĩa tâm linh, tín ngưỡng, phản ánh đầy đủ ba phương diện: thiên nhiên (cây đa), nguồn sống (giếng nước) và cộng đồng (sân đình).
Ngày nay, trước những tác động mạnh mẽ của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa, nhiều giá trị văn hóa truyền thống dần mai một. Câu hỏi đặt ra là: Làm thế nào để vừa phát triển, vừa giữ gìn được những biểu tượng văn hóa đã gắn bó hàng nghìn năm với làng quê Việt?
Cây đa - chứng nhân lịch sử và tâm linh
Ở đầu làng hay bên bến nước, hình ảnh cây đa cổ thụ với tán lá sum suê, gốc rễ xòe rộng từ lâu đã trở thành biểu tượng quen thuộc. Với tuổi đời hàng trăm năm, thậm chí cả nghìn năm, cây đa được ví như “chứng nhân lịch sử”, chứng kiến biết bao sự đổi thay của làng quê.
Cây đa không chỉ mang lại bóng mát cho người đi đường, là nơi lũ trẻ tụ tập vui chơi, mà còn ẩn chứa chiều sâu tâm linh. Trong dân gian, cây đa gắn với nhiều truyền thuyết: gốc đa có ông lão câu cá, có chị Hằng và chú Cuội, có bóng dáng thần linh huyền bí. Không ít làng quê còn dựng miếu nhỏ dưới gốc đa để thờ thần, thể hiện niềm tin vào sự che chở của trời đất.
Trong ca dao, cây đa hiện diện như một biểu tượng của sự gắn kết cộng đồng: “Cây đa, bến nước, sân đình/ Nơi hò hẹn của ân tình quê hương.”
Đó không chỉ là nơi hẹn hò đôi lứa mà còn là điểm tựa tâm hồn của những người con xa quê. Nhắc đến cây đa là nhớ đến làng, nhớ đến cội nguồn.
Ở nhiều địa phương, cây đa còn gắn liền với những sự kiện lịch sử. Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, nhiều gốc đa trở thành nơi hội họp bí mật, che chở cho cán bộ cách mạng. Có thể nói, cây đa không chỉ là chứng nhân của lịch sử làng xã, mà còn góp phần lưu giữ lịch sử dân tộc.
Giếng nước - mạch nguồn thanh khiết và văn hóa cộng đồng
Nếu cây đa là chứng nhân thời gian, thì giếng nước là mạch nguồn của sự sống. Trong xã hội nông nghiệp, nước giếng đóng vai trò thiết yếu, cung cấp nguồn nước sạch cho cả cộng đồng. Giếng thường được đào gần đình, chùa hoặc ở trung tâm xóm làng để mọi người cùng sử dụng.
Nước giếng trong vắt, mát lành, chảy từ mạch ngầm sâu trong lòng đất, nuôi dưỡng bao thế hệ dân quê. Nhưng giếng không chỉ đơn thuần là công trình thủy lợi, mà còn là nơi kết nối con người với nhau. Hình ảnh các bà, các chị gánh nước, chuyện trò bên giếng đã trở thành nét sinh hoạt thân quen. Nơi đó, những câu hò đối đáp, những lời tỏ tình vụng dại từng làm rung động biết bao trái tim tuổi trẻ.
Trong quan niệm dân gian, giếng nước mang ý nghĩa thanh sạch, tinh khiết. Vào các dịp lễ hội, người dân thường lấy nước giếng dâng cúng Thành Hoàng hay thần linh. Giếng vì thế được coi là “mạch nguồn linh thiêng”, gắn kết con người với đất đai và trời đất.
Ngày nay, nhiều giếng làng đã bị lấp đi do nhu cầu quy hoạch hoặc bị thay thế bởi hệ thống nước máy. Tuy nhiên, ở một số nơi như Bắc Ninh, Nam Định, Thanh Hóa, nhiều giếng cổ vẫn được bảo tồn, trở thành di sản văn hóa, thu hút sự quan tâm của du khách và các nhà nghiên cứu.
Nếu cây đa là thiên nhiên, giếng nước là nguồn sống, thì sân đình chính là “trái tim” của làng xã truyền thống. Đình làng không chỉ là nơi thờ Thành Hoàng - vị thần bảo hộ làng mà còn là trung tâm hành chính, văn hóa, tín ngưỡng.
Trên sân đình, những lễ hội truyền thống được tổ chức long trọng: tiếng trống, tiếng chiêng, rước kiệu, tế lễ, hát chèo, quan họ, tuồng cổ, cùng những trò chơi dân gian như kéo co, đấu vật, đánh cờ người. Đây là dịp để cộng đồng làng xã gắn kết, cùng nhau thể hiện lòng biết ơn tổ tiên, thần linh và vun đắp tình đoàn kết.
Đình cũng là nơi diễn ra những cuộc họp làng, bàn việc chung như chia ruộng đất, thu thuế, giải quyết tranh chấp. Nói cách khác, sân đình vừa mang tính linh thiêng, vừa mang tính thiết thực, là không gian hòa quyện giữa đời sống tâm linh và đời sống xã hội.
Ngày nay, nhiều ngôi đình đã được công nhận là di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia, thậm chí cấp quốc tế. Đình làng Đình Bảng (Bắc Ninh), đình Tây Đằng (Ba Vì, Hà Nội), đình Chu Quyến (Ba Vì), đình Lỗ Hạnh (Bắc Giang)… là những minh chứng sống động cho giá trị kiến trúc, nghệ thuật và tâm linh của đình làng Việt.
Ảnh: VGP/Diệu Anh
Thách thức bảo tồn trong bối cảnh hiện đại
Sự phát triển mạnh mẽ của đô thị hóa, công nghiệp hóa đang khiến không gian văn hóa làng quê biến đổi sâu sắc. Nhiều cây đa cổ thụ bị chặt bỏ để lấy đất làm đường, nhiều giếng nước bị lấp đi, nhiều đình làng xuống cấp hoặc bị thay thế bởi những công trình bê tông hiện đại.
Nguy hiểm hơn, không chỉ giá trị vật chất mà giá trị tinh thần cũng bị phai nhạt. Thế hệ trẻ ngày nay ít có dịp gắn bó với làng quê, không còn ký ức sâu đậm về cây đa, giếng nước, sân đình. Khi mạch ký ức cộng đồng bị đứt gãy, việc phục dựng sẽ khó khăn hơn rất nhiều.
Các nhà nghiên cứu văn hóa cho rằng, bảo tồn không gian làng quê không chỉ dừng lại ở việc trùng tu di tích, mà còn phải giữ được “hồn cốt” – tức là nếp sinh hoạt, lối sống, phong tục tập quán gắn với những biểu tượng ấy. Nếu chỉ còn lại cây đa, giếng nước, sân đình như những “vật thể” đơn lẻ, mà không còn cộng đồng sinh hoạt xung quanh, thì giá trị văn hóa sẽ không còn trọn vẹn.
Để bảo tồn và phát huy giá trị của “bộ ba huyền thoại”, cần có những giải pháp đồng bộ. Nhà nước cần tiếp tục ban hành và thực hiện các chính sách hỗ trợ bảo tồn, trùng tu cây đa cổ thụ, giếng làng, đình làng. Các dự án đô thị hóa phải gắn với yêu cầu bảo tồn không gian văn hóa truyền thống.
Nhiều địa phương đã khai thác hình ảnh làng quê truyền thống để phát triển du lịch. Ở Bắc Ninh, lễ hội Quan họ gắn liền với không gian đình làng. Ở Hội An, mô hình du lịch cộng đồng với giếng cổ và đình làng đã thu hút du khách. Đây là hướng đi vừa bảo tồn, vừa tạo sinh kế cho người dân.
Giáo dục thế hệ trẻ, đưa những biểu tượng truyền thống vào sách giáo khoa, chương trình giáo dục, hoạt động ngoại khóa. Tổ chức cho học sinh tham gia lễ hội đình làng, tìm hiểu về giếng cổ, cây đa. Khi trẻ hiểu và tự hào về truyền thống, việc bảo tồn sẽ có sức sống lâu dài.
Xã hội hóa công tác bảo tồn không chỉ dựa vào Nhà nước, cần huy động sự tham gia của cộng đồng, các nhà nghiên cứu, doanh nghiệp và cả kiều bào. Bởi bảo tồn di sản là trách nhiệm chung, gắn liền với bản sắc và cội nguồn dân tộc.
Sử dụng công nghệ 3D, thực tế ảo để lưu giữ và quảng bá hình ảnh đình làng, cây đa, giếng cổ. Nhiều bảo tàng số về làng quê Việt đang được triển khai, giúp lan tỏa giá trị văn hóa đến thế hệ trẻ trong thời đại số.
Cây đa - giếng nước - sân đình không chỉ là những hình ảnh quen thuộc trong ký ức, mà còn là biểu tượng của bản sắc văn hóa Việt Nam. Chúng phản ánh sự hòa hợp giữa thiên nhiên, con người và cộng đồng; là cội nguồn tinh thần nuôi dưỡng tâm hồn dân tộc qua hàng nghìn năm lịch sử.
Ngày nay, dù nhịp sống hiện đại khiến không gian làng quê biến đổi, nhưng trong tâm thức người Việt, bộ ba huyền thoại ấy vẫn vẹn nguyên giá trị. Nhiệm vụ của chúng ta là vừa phát triển đất nước hiện đại, vừa gìn giữ hồn cốt truyền thống. Bởi như một nhà nghiên cứu đã nói: “Giữ được cây đa, giếng nước, sân đình là giữ được linh hồn của làng Việt. Mất đi chúng, làng quê sẽ chỉ còn lại những khối bê tông vô hồn.”
Bảo tồn không gian văn hóa làng quê không chỉ là giữ lại những biểu tượng của quá khứ, mà còn là cách để chúng ta giữ gìn bản sắc, hun đúc sức mạnh tinh thần, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững của dân tộc trong tương lai.
Trung Anh