Khu di tích Quốc gia đặc biệt Tân Trào
Khu di tích Quốc gia đặc biệt Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang nằm trên địa bàn xã Tân Trào với gần 140 di tích, cụm di tích. Khu di tích là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các cơ quan Trung ương ở và làm việc trong thời kỳ tiền khởi nghĩa và thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, gồm các di tích tiêu biểu như: Đình Hồng Thái, Cụm di tích Nà Nưa, Đình Tân Trào, cây đa Tân Trào… Đình Hồng Thái được xây dựng vào năm Khải Định thứ 4 (1919) hoàn toàn bằng gỗ, theo lối kiến trúc nhà sàn truyền thống, gồm ba gian, hai chái, mái lợp lá cọ nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của cộng đồng cư dân địa phương.
Đình Hồng Thái thờ thành hoàng làng, các vị thần sông, thần núi xung quanh vùng và Ngọc Dung công chúa. Ngoài giá trị văn hóa và tín ngưỡng, đình Hồng Thái còn mang nhiều giá trị lịch sử. Đây là địa điểm dừng chân đầu tiên của Bác Hồ khi Người từ Pác Bó về Tân Trào (ngày 21/5/1945). Đình cũng được chọn làm nơi đón tiếp các đại biểu về dự Hội nghị cán bộ toàn quốc của Đảng (từ ngày 13 - 15/8/1945) và Quốc dân Đại hội (từ ngày 16 - 17/8/1945).
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954), đình Hồng Thái trở thành trụ sở của Ban bảo vệ an toàn khu (ATK), được coi như phòng Thường trực của các cơ quan Trung ương đóng quanh vùng. Đình còn là trụ sở làm việc của bộ phận Tiếp tế ATK. Sau khi bộ phận này chuyển đi, nhiều đơn vị bộ đội đã về đóng quân tại đình để huấn luyện và làm nhiệm vụ bảo vệ các cơ quan Trung ương. Không chỉ là nơi sinh hoạt văn hóa, hội họp của người dân địa phương, đình Hồng Thái còn trở thành địa chỉ giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ.
Lán Nà Nưa - nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh ở và làm việc từ cuối tháng 5-1945.
Cụm di tích Nà Nưa bao gồm các di tích: Lán Nà Nưa, lán Cảnh vệ, lán Điện Đài, lán Đồng Minh và lán họp hội nghị cán bộ toàn quốc của Đảng. Lán Nà Nưa là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh ở và làm việc từ cuối tháng 5/1945 đến ngày 22/8/1945 để chuẩn bị và lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Đây là một căn lán nhỏ, nằm ở sườn núi Nà Nưa, dưới chân dãy núi Hồng. Địa điểm dựng lán đáp ứng được yêu cầu của Bác đề ra, đó là “gần nguồn nước, gần dân, xa đường quốc lộ, thuận đường tiến, tiện đường thoái”.
Lán được dựng theo kiểu nhà sàn của đồng bào miền núi, ẩn mình dưới những tán cây rậm rạp, cột làm bằng thân cây chôn xuống đất, rui mè bằng tre nứa, mái lợp lá. Lán có hai gian nhỏ, gian bên trong là nơi Bác nghỉ ngơi, gian bên ngoài là nơi Bác làm việc và tiếp khách. Tại căn lán nhỏ đơn sơ này, nhiều văn kiện, chỉ thị, chủ trương, kế hoạch liên quan đến cách mạng tháng Tám năm 1945 đã được Bác Hồ soạn thảo. Ngày 4/6/1945, tại Lán Nà Nưa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập hội nghị cán bộ toàn khu để củng cố căn cứ địa cách mạng, thành lập khu giải phóng, thống nhất các lực lượng vũ trang thành quân giải phóng, chuẩn bị cho hội nghị toàn quốc của Đảng và Quốc dân Đại hội.
Đình Tân Trào là nơi diễn ra Quốc dân Đại hội - sự kiện lịch sử trọng đại tạo tiền đề cho Cách mạng Tháng Tám thành công. Do nằm trên mảnh đất có vị trí chiến lược về mặt quân sự, bốn bề là núi rừng bao bọc, đình Tân Trào đã được Bác Hồ và Trung ương Đảng chọn làm nơi tổ chức họp Quốc dân Đại hội trong hai ngày 16 và 17/8/1945.
Tại đây, Đại hội đã tán thành chủ trương tiến hành Tổng khởi nghĩa của Đảng; thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh; quy định quốc kỳ của Việt Nam là lá cờ đỏ sao vàng, quốc ca là bài Tiến quân ca và cử ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam tức Chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Dưới mái đình này, sáng 17/8/1945, thay mặt Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc lời tuyên thệ trong lễ ra mắt Quốc dân.
Cây đa Tân Trào - một trong những biểu tượng của quê hương cách mạng Tân Trào. Dưới gốc đa này, chiều 16/8/1945, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đọc Bản Quân lệnh số 1, chính thức phát động cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Ngay sau đó, quân Giải phóng Việt Nam đã làm lễ xuất quân trước sự chứng kiến của nhân dân xã Tân Trào cùng 60 đại biểu toàn quốc về dự Quốc dân Đại hội.
Khu di tích lịch sử cách mạng Tiểu khu Trọng Con
Khu di tích Tiểu khu Trọng Con nằm ở thôn Thác, xã Bằng Hành, tỉnh Tuyên Quang, có tuyến đường Quốc lộ 279 chạy từ xã Bắc Quang qua xã Bằng Hành tới xã Chiêm Hóa. Từ khoảng năm 1939, phong trào đấu tranh chống đế quốc đã nhen nhóm ở nơi đây khi đồng chí Phạm Trung Ngũ, đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương từ huyện Hòa An của tỉnh Cao Bằng, được phân công tới tổng Bằng Hành, nay thuộc xã Bằng Hành để gây dựng cơ sở cách mạng thông qua việc dạy học.
Chỉ trong một thời gian ngắn, đồng chí Phạm Trung Ngũ đã khơi dậy lòng yêu nước, ý thức cách mạng của đồng bào trong vùng, tố cáo ách thống trị của thực dân Pháp. Tuy nhiên, do bị thực dân Pháp phát hiện nên đồng chí Phạm Trung Ngũ đã phải rút khỏi Bằng Hành đến nơi khác hoạt động. Thực hiện Chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 1/6/1945, đồng chí Lê Quảng Ba (tức Lê Tâm), đồng chí Bế Triều (tức Hải Nam) chỉ huy đội vũ trang tuyên truyền gồm 54 chiến sĩ xuất phát từ Cao Bằng về tổng Bằng Hành để tuyên truyền, xây dựng cơ sở cách mạng.
Để đảm bảo bí mật và an toàn, các đồng chí trong Ban Chỉ huy chia nhỏ thành từng nhóm đi tuyên truyền, xây dựng cơ sở. Chỉ trong một thời gian ngắn, đội vũ trang tuyên truyền đã mở được nhiều lớp đào tạo ngắn ngày, thành lập các đội du kích, tự vệ, các đoàn thể cứu quốc và đặt tên vùng hoạt động là "Tiểu khu Trọng Con" (tên anh hùng Lý Tự Trọng) bao gồm các xã Bằng Hành, Liên Hiệp, Kim Ngọc, Vô Điếm, Hữu Sản của tỉnh Hà Giang cũ.
Ngày 24/6/1945, đại biểu chính quyền cách mạng các xã trong Tiểu khu Trọng Con đã tổ chức mít tinh tại Thác Vệ, xã Bằng Hành để thành lập chính quyền cách mạng và Mặt trận Việt Minh tổng hội. Tại đây, nhân dân đã được chứng kiến việc chính quyền cách mạng đốt bằng sắc, ấn triện, xóa bỏ chế độ áp bức bóc lột của đế quốc phong kiến, tổ chức cho nhân dân sản xuất, bảo vệ trật tự trị an, xây dựng đời sống mới.
Từ đó, phong trào cách mạng ngày một phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng lan rộng. Tháng 8/1945, phong trào cách mạng của đồng bào các dân tộc trong tỉnh đã lớn mạnh, cùng cả nước nổi dậy cướp chính quyền giành độc lập. Năm 1996, Di tích lịch sử cách mạng Tiểu khu Trọng Con được Nhà nước công nhận là di tích cấp Quốc gia.
Khu di tích lịch sử cách mạng Căng Bắc Mê
Căng Bắc Mê - di tích lịch sử thời kỳ kháng chiến chống Pháp, tọa lạc trên sườn núi Rồng thuộc địa bàn thôn Đồn Điền, xã Yên Cường, huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang cũ. Căng Bắc Mê được người Pháp xây dựng trước năm 1938 trong thời gian chiếm đóng Hà Giang. Được người Pháp chọn xây dựng tại nơi đây bởi vị trí chiến lược trọng yếu, dễ dàng kiểm soát được khu vực rộng lớn, thuận lợi cho những hoạt động quân sự của Pháp trong thời gian chiếm đóng nơi đây.
Một phần Di tích lịch sử cách mạng Căng Bắc Mê
Căng Bắc Mê được xây dựng dựa trên sườn núi đá tai mèo hiểm trở, cao vút. Phía sau là núi Rồng như che chắn bảo vệ cho đồn bốt này, trước mặt là dòng sông Gâm giúp cho việc quan sát, bao quát tình hình được dễ dàng. Căng Bắc Mê ban đầu được người Pháp xây dựng để kiểm soát tuyến đường huyết mạch nối 3 tỉnh miền núi phía Bắc: Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng trước đây. Khi mới xây dựng nơi đây được sử dụng như một trại binh tập kết binh lính của Pháp và tay sai trong thời gian chiếm dóng tại địa bàn này.
Sở dĩ nơi đây được gọi là Căng Bắc Mê, bởi theo tiếng Pháp căng mang ý nghĩa là “đồn”, Bắc Mê theo tiếng địa phương là “Pác Mìa” được hiểu là cửa chòi để chỉ đồn bốt nơi đóng quân cũng như là nơi đặt chốt quan sát của thực dân Pháp. Căng Bắc Mê được xây dựng bao gồm hệ thống những đồn bốt, nhà thông tin, vọng gác nhằm phục vụ cho mục đích cai trị của chúng.
Từ năm 1939-1942, Căng Bắc Mê được người Pháp biến thành trại tù binh để giam giữ các chiến sỹ cộng sản mà chúng bắt được. Tận dụng địa thế trọng yếu của đồn bốt được xây dựng ở nơi rừng thiêng, nước độc có địa thế cheo leo hiểm trở của khu vực này, chúng bắt những tù nhân chính trị, những chiến sỹ cộng sản yêu nước giam cầm tại nơi đây.
Hàng ngày những chiến sỹ đó phải chịu những đòn roi tra tấn, phải lao động trong điều kiện khắc nghiệt, kham khổ dưới sự kiểm soát gắt gao của chúng nhằm dập tắt tinh thần yêu nước, ý chí cách mạng của những người con mà chúng gọi là Việt Cộng. Song tất cả những khó khăn gian khổ đó không khắc phục được ý chí quật cường của nhân dân ta. Những người con yêu nước đã biến đau thương thành hành động, biến nơi tù đày thành trường học chính trị.
Họ thành lập cả chi bộ Đảng trong tù, tích cực rải truyền đơn, liên lạc với nhân dân và các chiến sỹ bên ngoài. Đứng trước những hoạt động đấu tranh mạnh mẽ của tù nhân cùng nhân dân trong khu vực, chúng buộc phải thay đổi nơi giam giữ với những đồng chí cộng sản sang những nơi khác. Đến năm 1992, Căng Bắc Mê được công nhận là di tích lịch sử cách mạng cấp Quốc gia.
Có thể nói, mỗi một di tích lịch sử đều ghi đậm dấu ấn về chặng đường cách mạng đầy hào hùng của dân tộc rất đỗi tự hào. Đó là nơi để mỗi du khách về nguồn tìm hiểu truyền thống của cha ông, đúc rút những bài học về lòng yêu nước, sự nỗ lực vươn lên xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh.
Hiếu Anh
(Tổng hợp)