Văn miếu Trấn Biên trong mắt người xưa

Văn miếu Trấn Biên trong mắt người xưa
7 giờ trướcBài gốc
Một số sách xưa có viết về Văn miếu Trấn Biên.
Trong rất nhiều động thái chính trị, quân sự đối với vùng đất phương Nam, Quốc Chúa có một việc làm đáng lưu ý là sai Trấn thủ dinh Trấn Biên Nguyễn Phan Long và Ký lục Phạm Khánh Đức đi lựa đất để xây dựng nên văn miếu đầu tiên ở Nam Bộ.
Văn miếu đầu tiên ở Nam Bộ
VMTB hình thành sớm nhất ở Nam Bộ. Đến năm Minh Mạng thứ 5 (tức Giáp Thân, 1824), triều Nguyễn mới cho xây dựng văn miếu Gia Định ở thôn Phú Mỹ, huyện Bình Dương. Tại tỉnh Vĩnh Long, đến năm Tự Đức thứ 17 (1864), văn thân trong tỉnh mới hợp nhau dựng nên ở thôn Long Hồ, huyện Vĩnh Bình. Đấy là 3 văn miếu ở 6 tỉnh Nam Bộ lúc bấy giờ, nhưng cách thức xây dựng hoàn toàn khác nhau. Nhìn rộng hơn, trừ văn miếu Thăng Long được xây dựng năm 1070, thời vua Lý Thánh Tông và một số rất ít văn miếu có từ thời chúa Nguyễn (không rõ năm xây dựng), hầu hết các văn miếu ở những tỉnh khác trên cả nước được xây dựng vào các đời vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.
Người ghi chép việc xây dựng VMTB đầu tiên là Trịnh Hoài Đức, một người quê ở Trấn Biên. Toàn bộ những ghi chép này nằm trong sách Gia Định thành thông chí được Trịnh Hoài Đức viết trong thời gian làm Hiệp hành Gia Định lưu trấn và Hiệp trấn thành Gia Định (từ năm 1805 trở đi). Khi bộ sách này hoàn thành, tác giả đã dâng lên vua Gia Long ngự lãm, vì cũng chính vị vua này đã sai ông kê khảo sự tích, cương vực, thổ sản trong địa hạt và đo xem đường sá xa gần, núi sông chỗ nào hiểm yếu hay bình thản, vẽ vào bản đồ, ghi chép biên bản từng khoản, cước chú rõ ràng, dâng lên để hình lục. Nhưng Trịnh Hoài Đức không viết Gia Định thành thông chí theo lối người chép sử hay địa dư thông thường, bởi vùng đất này là quê hương của ông với biết bao gắn bó:
Ở địa phận thôn Bình Thành và thôn Tân Lại, huyện Phước Chánh, cách tây trấn 2 dặm rưỡi. Đời vua Hiển tôn năm Ất vị thứ 25 (1715), Trấn thủ dinh Trấn Biên là Nguyễn Phan Long và Ký lục Phạm Khánh Đức lựa chỗ đất dựng lên ban đầu, phía Nam hướng ra sông Phước, phía Bắc dựa theo núi rừng, núi sông thanh tú, cỏ cây tươi tốt. Năm Giáp Dần thời trung hưng (1794), Lễ bộ Nguyễn Hồng Đô khâm mạng giám đốc trùng tu, giữa làm Đại Thành điện và Đại Thành môn, phía Đông làm Thần miếu, phía Tây làm Dục Thánh từ, trước xây tường ngang, phía tả có cửa Kim Thanh, phía hữu có cửa Ngọc Chấn, chính giữa sân trước dựng Khuê Văn các treo trống chuông trên đấy, phía tả có Sùng Văn đường, phía hữu có Duy Lễ đường. Chu vi bốn mặt ngoài xây thành vuông, mặt tiền làm cửa văn miếu, phía tả phía hữu có cửa Nghi môn, rường cột chạm trổ, quy chế tinh xảo, đồ thờ có những thần bái, khám vàng, ve chén và đồ phủ quỹ biên đậu đều chỉnh nhã tinh khiết. Trong thành trăm hoa tươi tốt, có những cây tùng, cam, quýt, bưởi, hoa sứ, mít, xoài, chuối và quả hồng xiêm đầy rẫy xum xuê, quả sai lại lớn, thường năm hai lệ tế xuân và thu, khâm mạng vua, Tổng trấn quan hành lễ, phân hiến hai bên thì dùng Trấn quan và Đốc học quan, kỳ dư đều đứng bồi tế, lệ đặt 50 lễ sanh và 50 miếu phu, đều lo chức phận.
Nếu chỉ là người chép địa dư bình thường, có lẽ sẽ không có những dòng tả chi tiết về cây cối và cúng tế ở VMTB đến thế.
Người thứ hai ghi chép về VMTB là Quốc sử quán triều Nguyễn. Đây là cơ quan được nhà vua lập ra để chuyên ghi chép lịch sử, địa lý nước nhà. Trong các công trình văn hóa lớn của Quốc sử quán triều Nguyễn thì bộ Đại Nam nhất thống chí có ý nghĩa khá quan trọng. Bộ sách này ghi chép khá tường tận về địa lý, hành chính, lịch sử, văn hóa, nhân vật của tất cả các tỉnh, đạo, châu trong cả nước. Khi viết về các tỉnh Nam Bộ, Quốc sử quán đã dựa chủ yếu vào bộ Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, thêm vào những sử liệu mới cho đến lúc sách được viết (Trịnh Hoài Đức mất năm 1825, còn Đại Nam nhất thống chí được soạn vào thời vua Tự Đức trở đi).
Tuy nhiên, trong bộ Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, VMTB được ghi chép đầy đủ và chi tiết nhất so với 27 văn miếu ở các tỉnh, đạo, phủ khác, kể cả văn miếu ở kinh sư. Điều này tự thân đã nói lên vai trò đặc biệt của nó.
Khi xây dựng lại công trình VMTB, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Đồng Nai đã tiếp nối con đường chấn hưng văn hóa, giáo dục mà ông cha ta đã từng làm với một ý nghĩa mới của thời đại.
Giá trị mang tính biểu trưng về văn hóa
Lý do đã khiến chúa Nguyễn Phúc Chu sai Trấn thủ dinh Trấn Biên và Ký lục Phạm Khánh Đức lựa thôn Tân Lại, tổng Phước Vĩnh (nay là phường Bửu Long, Biên Hòa) để xây dựng VMTB có thể hiểu là vì khi đó Biên Hòa đã là nơi dân cư ổn định, phát triển hơn nhiều vùng khác, kể cả Gia Định (đến năm 1732, chúa Nguyễn Phúc Chú mới lập dinh Long Hồ và châu Định Viễn). Việc hình thành VMTB đối với chúa Nguyễn có ý nghĩa như là sự khẳng định những giá trị văn hóa và cả chính trị ở một vùng đất mới.
Theo quan niệm của người xưa, nơi dựng VMTB là chỗ đất tốt. Sách Gia Định thành thông chí và cả Đại Nam nhất thống chí đều ghi rõ hơn: Phía Nam trông ra sông Phước Giang, phía Bắc dựa vào núi Long Sơn, là một cảnh đẹp nhất ở Trấn Biên. Ban đầu, có thể VMTB còn sơ sài, hoặc sau đó bị các cuộc chiến tranh (Tây Sơn - Nguyễn Ánh) làm tổn hại. Từ đó, VMTB trải qua hai lần trùng tu lớn. Lần thứ nhất vào năm Giáp Dần (1794), chúa Nguyễn Phúc Ánh đã sai Lễ bộ Nguyễn Hồng Đô trùng tu, được Trịnh Hoài Đức ghi chép. Quốc sử quán triều Nguyễn đã không bỏ qua sự kiện này, trái lại còn ghi chép tỉ mỉ hơn. Lần trùng tu thứ hai diễn ra vào năm Tự Đức thứ 5 (Nhâm Tý,1852). Lúc này, quy mô của VMTB lớn hơn trước và Đại Nam nhất thống chí mô tả khá cụ thể:
Văn miếu chính đường và tiền đường đều 5 gian, lại dựng thêm 2 dãy tả vu và hữu vu, mỗi dãy 5 gian; đền Khải Thánh, chính đường và tiền đường đều 3 gian, một tòa cửa giữa 3 gian, một tòa cửa trước 1 gian, một tòa kho đồ thờ 3 gian, một tòa Khuê Văn các 2 tầng, ba gian hai chái; phía trước, biển “Đại Thành điện” đổi làm “Văn Miếu điện” và “Khải Thánh điện” đổi làm “Khải Thánh từ.
Như vậy, đến thời Tự Đức, VMTB đã được xây dựng hoàn chỉnh và to đẹp nhất. Sách Đại Nam nhất thống chí không chỉ ghi chép đầy đủ và chi tiết nhất về VMTB so với các văn miếu khác mà còn kể rằng, những lần xây dựng và trùng tu đều được đích thân các quan lại phụng mệnh người đứng đầu chính quyền trung ương thời bấy giờ (Nguyễn Phúc Chu, Nguyễn Ánh, Tự Đức) thực hiện. Đầu đời Trung hưng (trước năm 1802), đích thân chúa Nguyễn đến VMTB để hành lễ hàng năm vào ngày đinh mùa xuân và mùa thu. Từ đó về sau (khi nhà Nguyễn đã được thiết lập), khâm mạng vua, quan Tổng trấn thành Gia Định đến hành lễ, cùng với Trấn quan Biên Hòa và quan Đốc học (vị quan xem việc học ở trấn Biên Hòa). Sự kiện này chứng tỏ, trong một thời gian khá dài (từ 1715 đến 1824), VMTB đã đóng vai trò là một văn miếu của cả Đàng Trong. Nói cách khác, trong quan niệm của chính quyền phong kiến chúa Nguyễn, VMTB từng được xem là văn miếu của cả quốc gia (vì trước năm 1802, nhà Nguyễn chỉ mới chiếm cứ được vùng đất từ Bình Thuận trở vào).
Còn đối với người dân tỉnh Biên Hòa xưa, hẳn VMTB là niềm tự hào to lớn. Bên cạnh là nơi tôn sùng Nho học, ngay vị trí VMTB tọa lạc còn có Tỉnh học (trường học tỉnh Biên Hòa). Trường học lớn của cả tỉnh này mãi đến đời vua Minh Mạng mới dời về thôn Tân Lại (phường Hòa Bình, nay là phường Quang Vinh, thành phố Biên Hòa). Cũng vào thời Minh Mạng, Trường phủ Phước Long đã được thành lập ở thôn Bình Lợi, tổng Phước Vĩnh (nay là huyện Vĩnh Cửu). Như vậy, VMTB đã đóng vai trò như một trung tâm văn hóa, giáo dục của tỉnh Biên Hòa xưa. Bởi vậy, khi đáo nhậm (trở lại làm nhiệm vụ cũ), năm 1840, quan Bố chánh tỉnh Biên Hòa Ngô Văn Địch đã hết lời ca ngợi VMTB qua đôi liễn:
Giang hán dĩ trạc, thu dương dĩ bộc, hạo hồ bất khả thượng;
Tôn miếu chi mỹ, bá quan chi phú, du giả vi ngôn
(Lý Việt Dũng dịch nghĩa: Chốn tôn miếu của nhà vua mỹ miều, bá quan trong triều sang cả, sự đẹp đẽ không thể nói hết được).
Giá trị mang tính biểu trưng về văn hóa của VMTB không chỉ được tầng lớp quan lại và sĩ phu phong kiến tôn vinh, mà nhân dân Biên Hòa cũng rất ngưỡng vọng và gọi bằng cái tên gần gũi hơn Văn Thánh. Cũng chính vì những lý do đó, năm 1861, ngay sau khi chiếm được tỉnh Biên Hòa, một trong những việc đầu tiên thực dân Pháp đã làm là đốt phá VMTB. Trong hoàn cảnh ấy, nhân dân Biên Hòa đã lén cất giấu đôi liễn của quan Bố chánh Ngô Văn Địch thuở trước, để rồi sau đó đưa về treo tại đình Hiệp Hưng, Tân Uyên...
Trần Châu Thưởng
Nguồn Đồng Nai : https://baodongnai.com.vn/dong-nai-cuoi-tuan/202503/van-mieu-tran-bien-trong-mat-nguoi-xua-acc5a1d/