Một góc núi lửa Nâm Kar
Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, núi lửa Nâm Kar được hình thành từ 3 núi lửa gồm 1 điểm nón than chính và 2 nón than phụ. Điểm nón than chính cao 60 m, có đường kính 220 m, miệng nhỏ sâu khoảng 20 m tính từ đỉnh núi, có hình dạng oval điển hình. Điểm có độ cao 660 m so với mực nước biển, được cấu tạo chủ yếu từ xỉ, mỗi viên xỉ có đường kính vài cm. Về hướng Bắc cách vài chục mét, là một nón xỉ nhỏ hơn (S1) cao 24,2 m và có độ cao 605 m so với mặt nước biển, được thành tạo do quá trình phun nổ, gồm xỉ và bom núi lửa có đường kính khoảng 10 cm kết dính với nhau. Nón xỉ này không có miệng trên đỉnh, thay vào đó là các hiện tượng thoát khí, tạo cấu trúc ống trong quá trình di chuyển và được ví như hình dáng của thân cây. Về hướng Nam vài chục mét là miệng dung nham núi lửa thấp nhất (S2) cao 22,4 m và có độ cao 621 m so với mực nước biển. Miệng núi lửa có hình móng ngựa do các pha phun trào dung nham ở các thời kỳ khác nhau, đồng thời hình thành nên cánh đồng dung nham có diện tích khoảng 4,75 km2. Nón than và nón xỉ được hình thành trong giai đoạn đầu của phun trào khi dung nham vẫn còn giàu khí và độ nhớt thấp, sớm hơn giai đoạn hình thành miệng dung nham núi lửa. Dung nham chứa khí gas phun trào vào không khí, vỡ từng mảnh và nguội lạnh nhanh chóng. Hoạt động phun trào cũng tạo nên các bom núi lửa với nhiều hình dáng và kích cỡ khác nhau, đã tạo nên lớp màng thủy tinh do sự nguội lạnh quá nhanh chóng. Sau đó, khi dung nham bắt đầu ít khí gas và lỏng hơn, chúng dễ dàng chảy ra xa để tạo nên cánh đồng dung nham. Với hình dạng được bảo tồn khá nguyên vẹn, dãy núi lửa Nâm Kar được xem là núi lửa rất trẻ, có niên đại dưới 10.000 năm tuổi.
Dù hoang sơ, chưa đưa vào khai thác du lịch, nhưng núi lửa Nâm Kar luôn thu hút sự khám phá của du khách trong và ngoài nước
Không chỉ có giá trị địa chất, núi lửa Nâm Kar còn gắn liền với đời sống văn hóa của cộng đồng các dân tộc bản địa như M’nông, Ê đê... Đồng bào M’nông trong khu vực hiện nay vẫn còn truyền tai nhau về sự tích hình thành núi lửa Nâm Kar. Tương truyền, ngày xưa, trên đỉnh núi có một hồ nước rộng mênh mông và rất nhiều cá, cây cỏ xanh tốt. Biết được điều này, một chàng trai tìm đến bắt cá nướng ăn mà không hề biết đây là cá do thần nuôi. Vì thế, khi vừa ăn xong con cá nướng, chàng trai cảm thấy ngứa ngáy toàn thân và khuôn mặt dần biến dạng, có đôi tai rất to và cái mũi rất dài, cái bụng phình to, thân hình vạm vỡ như con voi. Vì là người biến thành voi nên ăn rất khỏe, dân làng không đủ cơm để nuôi. Các già làng, thầy cúng liền nấu cơm nếp, bắp, đậu, củ sắn rải lên lá cây trúc để nhử voi đến ăn. Voi ăn đến đâu thì thầy cúng đọc thần chú đến đó để voi nhớ rằng đó chính là thức ăn của mình.
Ngày nay, trên miệng ngọn núi lửa này vẫn có nước và cá sinh sống rất nhiều và đồng bào trong vùng vẫn giữ nguyên tên gọi của ngọn núi này là Nâm Kar (có nghĩa là núi cá). Truyền thuyết về núi lửa Nâm Kar cũng chính là sự tích con voi mà người M’nông thường kể trong sử thi để nhắc nhở, giáo dục con cháu không tự ý xâm hại đến tài nguyên thiên nhiên. Với vẻ đẹp nguyên sơ, giá trị địa chất độc đáo và chiều sâu văn hóa bản địa, núi lửa Nâm Kar không chỉ là báu vật của thiên nhiên mà còn là điểm đến tiêu biểu trong hành trình khám phá Công viên Địa chất toàn cầu UNESCO Đắk Nông - nơi những dòng chảy lửa ngày xưa vẫn âm thầm kể chuyện giữa đại ngàn Tây Nguyên hôm nay.
Mỹ Hằng