Về một số từ láy: ho hắng, hối hận, hơi hướng

Về một số từ láy: ho hắng, hối hận, hơi hướng
7 giờ trướcBài gốc
- “HO HẮNG đgt. Ho (nói khái quát). Rồi ông cụ quét máy ho hắng ầm ỉ (sic) như người đuổi”.(*)
Ho hắng là từ ghép đẳng lập [đồng đại]: ho là cảm giác bị kích ứng khiến người ta phải bật mạnh hơi từ trong cổ họng, há miệng phát ra thành tiếng (như ho khan; ho nhiều muốn nổ cổ); hắng là phát ra âm trầm từ cổ họng, miệng không há như khi ho. Hắng có thể là “gại giọng” trước khi nói, có khi chỉ là “e hèm” đánh tiếng để báo hiệu sự có mặt của mình hoặc phản ứng trước ai đó (như hắng dặng; đằng hắng; Ông hắng một tiếng rồi mới thong thả nói). Ở đây, hắng là một kiểu ho nhẹ, khi bị kích ứng, gây ngứa trong họng. Thế nên, ho và hắng có thể hiểu là hai cấp độ khác nhau của ho, trong đó hắng nhẹ hơn ho. Ví dụ: Uống hết ấm thuốc, hai hôm nay không thấy ho, thấy hắng gì cả:
Như vậy, ho hắng là từ ghép đẳng lập, không phải từ láy.
- “HỐI HẬN tt. Cảm thấy đau lòng, ân hận khi nghĩ lại những lỗi lầm đã gây ra. Hối hận vì hành vi thiếu suy nghĩ của mình”.
Thực ra, hối hận 悔恨 là từ ghép đẳng lập gốc Hán [nghĩa đồng đại]: hối 悔 nghĩa là ăn năn, hối tiếc (như Sống buông thả có lúc hối không kịp); hận 恨 nghĩa là giận oán (như Tôi hận anh suốt đời); tiếc nuối, day dứt (như Tôi chỉ hận là không về kịp để nhìn mặt cha lần cuối).
Tham khảo: Trong sách Hình thái học trong từ láy tiếng Việt, Phan Ngọc cho rằng, nhóm biên soạn Từ điển từ láy tiếng Việt xếp hối hận vào từ láy là không đúng. Lý do Phan Ngọc nêu ra là “hai thanh điệu của hai âm tiết được xét không phải cùng bổng (có dấu sắc, không, hỏi)”.
Tuy nhiên, chứng lý này yếu, bởi nhận xét về từ láy, chính Phan Ngọc đã từng thừa nhận “quy tắc nào cũng có ngoại lệ”. Theo đây, ta không thể xem hối hận là từ láy, bởi đơn giản đây là từ ghép đẳng lập, trong đó hối và hận đều là những từ độc lập trong hành chức.
- “HƠI HƯỚNG dt. 1. Hơi, mùi đặc trưng còn giữ lại được ở những người, vật quen thuộc mà nay họ không còn ở cạnh nữa (nói khái quát). “Làm vợ họ, chung chăn chung đệm với họ, tránh sao cho khỏi có dây hơi hướng họ ít nhiều” (Mạc Phi). 2. Mang phảng phất nét đặc trưng: “Sử dụng chất liệu dân ca, sáng tác có hơi hướng dân ca.” (Văn nghệ). Có quan hệ chút ít về họ hàng. “Cụ tổ hắn cũng có hơi hướng họ hàng xa với cụ tổ bên mình” (Văn Trọng)”.
Hơi hướng là từ ghép đẳng lập [nghĩa đồng đại]: hơi nghĩa là đặc điểm, đặc trưng của người hoặc vật chất nào đó, có thể nhận qua mùi vị (như quen hơi; Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê - Kiều); hướng nghĩa là dấu hiệu, chiều hướng phát triển, hoặc phạm vi vấn đề đã được xác định, vạch sẵn (như Câu chuyện diễn biến theo hướng bất lợi cho anh ấy). Hơi hướng nghĩa là có hơi (tính chất đặc trưng) và có hướng (chiều hướng, hướng vẻ).
Ta thấy rõ điều này qua cách giảng của Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên - Vietlex):
- “hơi: mùi đặc trưng của một vật, một người: chè đã hả hơi ~ bé bện hơi mẹ ~ quen hơi bén tiếng ~ đánh hơi”.
- “hướng: phạm vi của vấn đề được định rõ, vạch rõ một cách hợp lý để theo đó mà làm: tiến hành công việc theo các hướng chính ~ phát triển theo hướng bền vững”.
- “hơi hướng • d. 1 hơi, mùi đặc trưng [nói khái quát; thường nói về cái hơi thoảng qua, còn giữ lại được ở những người, vật quen thuộc]: vẫn còn hơi hướng của ngày tết. Đn: hơi hám. 2 cái vẻ phảng phất: câu chuyện có hơi hướng thần thoại. 3 [cũ, id] quan hệ chút ít về họ hàng: hai người có hơi hướng họ hàng với nhau”.
Như vậy, cả 3 từ ho hắng, hối hận, hơi hướng, đều là những từ ghép đẳng lập, hoàn toàn không phải từ láy.
Mẫn Nông (CTV)
Chú thích: (*) - Mục này có lỗi chính tả, “ầm ĩ” viết thành “ầm ỉ”.
Nguồn Thanh Hóa : http://baothanhhoa.vn/ve-mot-so-tu-lay-ho-hang-hoi-han-hoi-huong-241109.htm