Trong bài viết “Vì sao phải thọ giới Cụ túc và giới Bồ-tát?”, tác giả Thích Hạnh Chơn đã phân tích ý nghĩa, nội dung và mối liên hệ giữa hai loại giới, đồng thời chỉ ra rằng việc thọ nhiều giới không đồng nghĩa với phẩm hạnh cao hơn. Đây là một góc nhìn chuyên sâu, mang tính đặc thù trong nghiên cứu giới luật Phật giáo. Nguyệt San Giác Ngộ trân trọng giới thiệu bài viết cùng quý độc giả và mong đón nhận thêm những ý kiến chia sẻ xoay quanh chủ đề này.
Giới luật được Đức Phật chế định theo thời gian từ năm thứ 13 sau ngày thành đạo và được các thế hệ đệ tử giữ gìn bổ sung ít nhiều và giải thích cho phù hợp văn hóa và thời đại(1). Chức năng của giới luật là bảo vệ cá nhân tránh các nghiệp ác và bảo vệ Tăng đoàn sống hòa hợp thanh tịnh. Nhờ đó, các cá nhân có điều kiện phát triển trí tuệ đạt được Thánh quả và Tăng bảo hay Phật pháp được trường tồn. Một vấn đề đặt ra là có phải thọ nhiều giới điều thì sẽ trở nên cao quý hơn? Có phải thọ nhiều loại giới thì cao quý hơn? Bài viết này sẽ nêu vấn đề và đưa ra quan điểm dựa trên phân tích nội dung giới điều. Rất mong các bậc cao minh chỉ dạy cho đàn hậu học.
Về giới luật Phật giáo
Trong các bài viết trước, con đã cố gắng giải thích khái niệm giới luật và các cấp độ thọ trì giới luật. Trong Phật giáo, có 6 cấp độ thọ trì giới luật chính thống. Giới cho cư sĩ tại gia có 2 cấp độ là cư sĩ thọ trì 5 điều học (5 giới) và 8 điều học (Bát quan trai giới). Giới luật cho hàng xuất gia có 4 cấp độ là Sa-di (Sāmanẹra) và Sa-di-ni thọ trì 10 điều học/giới; Thức-xoa-ma-na (Sikkhamānā) thọ trì 6 học pháp và 292 hành pháp; Tỳ-kheo (Bhikkhu) thọ trì 227 điều học (Nam truyền) hay 250 điều học (Bắc truyền); và Tỳ-kheo-ni (Bhikkhuni) thọ trì 311 điều học (Nam truyền) hay 348 điều học (Bắc truyền). Đó là giới luật chính thống được Đức Phật chế ra và các bộ phái sau này lưu truyền. Ngoài ra, Phật giáo phát triển hay còn gọi là Phật giáo Đại thừa có thêm giới Bồ-tát cho hàng xuất gia gồm có 10 giới nặng (trọng) và 48 giới nhẹ (khinh); giới Bồ-tát cho hàng tại gia gồm có 6 giới nặng (trọng) và 28 giới nhẹ (khinh)(2).
Về giới cho người cư sĩ tại gia
Cư sĩ tại gia sau khi quy y Tam bảo thì phát nguyện thọ trì 5 điều học (5 giới) là tránh xa sự sát sinh (không sát sinh), tránh xa sự trộm cắp, tránh xa sự tà hạnh, tránh xa sự nói dối, tránh xa việc uống rượu và sử dụng các chất độc hại. Nếu cư sĩ phát nguyện thọ trì Bát quan trai giới thì thêm 3 điều/giới nữa là không trang điểm, không múa hát, không đi xem nghe; không ngồi nằm giường cao rộng lớn; và không ăn phi thời. Cư sĩ tại gia phát tâm thọ trì giới để tu tập bản thân: tránh tạo nghiệp ác, làm các điều lành, tạo nhân đạt đến bậc Thánh. Cư sĩ không sống tập thể nên không có điều luật phạt sám hối hay bị đuổi khỏi tập thể. Nếu bản thân cư sĩ nhận thấy phạm giới thì sám hối lỗi lầm và xin giới lại.
Về giới cho người xuất gia
Sa-di hay Sa-di-ni thọ trì 10 giới điều là không sát sinh, không trộm cắp, không hành dâm, không nói dối, không uống rượu, không trang điểm, không múa hát xem nghe, không ngồi nằm giường cao rộng lớn, không ăn phi thời, và không giữ vàng bạc châu báu. Trong đó, 5 điều sau được áp dụng uyển chuyển cho phù hợp, nhất là 2 điều cuối. Cần nói thêm, Sa-di đầu tiên là ngài La-hầu-la. Lúc đó, Tôn giả Xá-lợi-phất làm Hòa thượng truyền giới tức bổn sư, Tôn giả Mục-kiền-liên làm A-xà-lê. Để trở thành Sa-di, vị ấy được bổn sư cho cạo tóc xuất gia, thọ Tam quy ngũ giới (5 giới), rồi mới thọ 10 giới. Ngày nay theo quy định hành chính, giới tử muốn thọ giới Sa-di phải làm đơn xin thọ giới tại Đại giới đàn có thập sư truyền 10 giới.
Thức-xoa-ma-na thọ trì 6 học pháp là không hành dâm, không trộm cắp, không sát sinh, không nói dối, không ăn phi thời, không uống rượu; và học 292 hành pháp tức các điều về oai nghi. Thức-xoa phải thọ trì 6 học pháp trong 2 năm tức 24 tháng, sau đó mới được thọ giới Cụ túc trở thành Tỳ-kheo-ni.
Tỳ-kheo thọ trì 227 giới điều theo Nam truyền (Luật Pāli) hay 250 giới điều theo Bắc truyền (Luật Tứ phần). Để trở thành một vị Tỳ-kheo, vị Sa-di phải đủ điều kiện theo luật quy định và thọ giới Cụ túc do Tăng (gồm ít nhất 10 vị Tỳ-kheo) bạch tứ yết-ma tác thành. Sau đó, Tăng trao 4 giới Ba-la-di, pháp Tứ y(3), bốn pháp Sa-môn(4). Các giới điều khác gồm 13 giới Tăng tàn, 2 pháp Bất định, 30 pháp Xả đọa, 90 pháp Đọa, 4 pháp Hướng bỉ hối, 100 pháp Chúng học, và 7 pháp Diệt tránh thì tùy theo bộ phái mà các Sa-di được cho học trước hay sau khi thọ giới Cụ túc.
Tỳ-kheo-ni thọ trì 348 giới (Bắc truyền). Để trở thành một vị Tỳ-kheo-ni, vị Thức-xoa phải đủ điều kiện theo luật quy định, thọ giới Cụ túc do Ni Tăng (gồm 10 vị Tỳ-kheo-ni) bạch tứ yết-ma tác thành gọi là Bản pháp yết-ma và cầu thọ giới Cụ túc do Đại Tăng (gồm 10 Tỳ-kheo và 10 Tỳ-kheo-ni) bạch tứ yết-ma tác thành gọi là Chánh pháp yết-ma. Sau đó, Tăng trao 8 giới Ba-la-di, pháp Tứ y, bốn pháp Sa-môn, Bát kỉnh pháp. Các giới điều khác gồm 17 giới Tăng tàn, 30 pháp Xả đọa, 178 pháp Đọa, 8 pháp Hướng bỉ hối, 100 pháp Chúng học, và 7 pháp Diệt tránh các Tỳ-kheo-ni sẽ học sau khi thọ giới Cụ túc(5).
Như đã trình bày, trở thành Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni là do Tăng bạch tứ yết-ma truyền giới Cụ túc mà thành tựu. Các giới điều được Tăng truyền sau khi đã thành tựu Tỳ-kheo hay Tỳ-kheo-ni. Nói cách khác, không phải do thọ trì 250 giới điều hay 348 giới điều mà thành Tỳ-kheo hay Tỳ-kheo-ni. Từ ý nghĩa này, người học và thực hành giới luật hiểu rõ không phải thọ nhiều giới điều là cao quý hơn thọ ít giới điều theo cách so sánh Sa-di có 10 giới còn Tỳ-kheo có 250 giới. Nếu điều này đúng thì Tỳ-kheo-ni cao quý hơn Tỳ-kheo vì Tỳ-kheo-ni thọ trì nhiều giới điều hơn Tỳ-kheo.
Về giới Bồ-tát
Giới Bồ-tát là thông giới vì tất cả mọi người gồm xuất gia, tại gia, nam nữ, và phi nhân vẫn có thể thọ giới Bồ-tát. Khác với giới Cụ túc chỉ dành cho hàng xuất gia gọi là biệt giới. Nếu là thông giới thì sao lại cho giới Bồ-tát cho hàng xuất gia có 58 điều và cho hàng tại gia 34 điều như đã nêu trên?
Nguồn gốc của giới Bồ-tát tại Ấn Độ vẫn chưa xác định(6). Tại Trung Quốc, giới Bồ-tát dựa vào hai quyển Giới Bồ-tát Phạm võng của ngài Cưu-ma-la-thập và Đại trì giới bổn của Tam tạng Đàm Vô Sấm(7). Tại Việt Nam, sự truyền dạy giới Bồ-tát dựa vào quyển kinh Phạm võng của Hòa thượng Thích Trí Tịnh dịch(8). Vì cho rằng muốn làm Bồ-tát thì phải thọ giới Bồ-tát nên giới Bồ-tát được truyền thọ tại các nước theo Phật giáo Bắc truyền chăng?
Giới Bồ-tát có 10 giới nặng (trọng) là: 1. Không sát sinh, 2. Không trộm cắp, 3. Không hành dâm, 4. Không nói dối, 5. Không bán rượu, 6. Không rao nói lỗi của tứ chúng, 7. Không tự khen mình chê người, 8. Không bỏn xẻn và mắng đuổi, 9. Không giận hờn không nguôi, 10. Không tà kiến và hủy báng Tam bảo.
48 giới nhẹ (khinh) là: 1. Phải kính thầy bạn, 2. Không uống rượu, 3. Không ăn thịt, 4. Không ăn ngũ tân, 5. Dạy người sám hối, 6. Cúng dường và thỉnh thuyết pháp, 7. Đi nghe pháp, 8. Không được có tâm trái bỏ Đại thừa, 9. Phải chăm sóc người bệnh, 10. Không chứa khí cụ sát sinh, 11. Không đi sứ với ác tâm gây đánh nhau, 12. Không buôn bán phi pháp, 13. Không hủy báng người tốt, 14. Không phóng hỏa đốt rừng, 15. Không dạy giáo lý ngoài Đại thừa, 16. Không vì lợi giảng pháp lộn xộn, 17. Không cậy thế lực quyên tiền, 18. Phải thông luật mới làm thầy truyền giới, 19. Không nói lưỡng thiệt, đâm thọc, 20. Phải phóng sinh, 21. Không đem giận trả giận đem đánh trả đánh, tức trả thù, 22. Không kiêu mạn rồi không thỉnh pháp, 23. Phải tận tâm dạy, 24. Phải tập học pháp Đại thừa, 25. Không tri chúng vụng về, 26. Không riêng thọ lợi dưỡng, 27. Không nhận cúng dường riêng, 28. Không thỉnh Tăng riêng, 29. Không tà mạng nuôi sống, 30. Không làm quản lý cho cư sĩ, 31. Phải mua chuộc hình tượng Phật, Bồ-tát, 32. Không mua bán đồ làm tổn hại chúng sinh, 33. Không tà nghiệp buông lung, 34. Không tạm bỏ Bồ-đề tâm, 35. Phải phát nguyện, 36. Phải phát thệ, 37. Không vào chỗ hiểm nạn, 38. Không trái thứ tự tôn ty, 39. Phải tu phước huệ, 40. Phải bình đẳng truyền giới, 41. Không vì lợi làm thầy, 42. Không vì người ác giảng giới pháp, 43. Không cố móng tâm phạm giới và thọ của thí không hổ thẹn, 44. Phải cúng dường kinh luật, 45. Phải giáo hóa chúng sinh, 46. Không được thuyết pháp không đúng pháp, 47. Không được hạn chế Tăng Ni phi pháp, 48. Không phá diệt Phật pháp.
So sánh 250 giới Tỳ-kheo và giới Bồ-tát xuất gia
Trong 250 giới điều của Tỳ-kheo, tất cả đều hướng đến xử lý các sự việc liên quan đến hành động của thân và khẩu được biểu hiện bên ngoài với những điều kiện nhất định có thể thấy nghe nhận biết. Bài viết tạm tóm tắt để có cơ sở so sánh như sau:
Bốn Ba-la-di liên quan đến thân có 3 điều (1, 2, 3), khẩu 1 điều (4).
30 Tăng tàn liên quan đến thân có 7 điều (1, 2, 6, 7, 11, 12, 13), khẩu 6 điều (3, 4, 5, 8, 9, 10).
30 pháp Xả đọa liên quan đến vật dụng sinh hoạt của Tỳ-kheo nên phần lớn thuộc về thân, như ăn, mặc, ngủ nghỉ và tài sản. Trong đó, ăn uống liên quan đến bát, thuốc có 3 điều (21, 22, 26); mặc liên quan đến y phục, lông dê có 18 điều (1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 16, 17, 23, 24, 25, 27, 28, 29); ngủ nghỉ liên quan đến ngọa, tọa cụ có 5 điều (11, 12, 13, 14, 15); và tài sản liên quan đến vàng bạc, Tăng vật có 4 điều (18, 19, 20, 30).
90 pháp Đọa tạm phân ra như sau: liên quan đến thân bao gồm ăn uống, sinh hoạt, vật dụng… có 56 điều (4, 5, 10, 11, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 31, 32, 33, 34, 35, 36, 37, 38, 39, 40, 41, 42, 43, 46, 47, 48, 49, 50, 51, 52, 53, 56, 57, 58, 59, 60, 61, 62, 67, 68, 69, 78, 79, 70, 71, 81, 82, 83, 84, 85, 86, 87, 88, 89, 90), liên quan đến khẩu hay lời nói có 22 điều (1, 2, 3, 6, 7, 8, 9, 12, 13, 54, 55, 63, 64, 65, 66, 72, 73, 74, 75, 76, 77, 80); liên quan đến cư xử với Ni có 9 điều (21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29), và cư xử người nữ có 3 điều (30, 44, 45). Trong đó, có điều 11 không phá hoại mầm sống, điều 51 không uống rượu và điều 61 không giết hại chúng sinh, tức giới sát sinh; điều 72 không được chê bai giới luật.
100 pháp chúng học liên quan đến sinh hoạt của Tỳ-kheo như mặc y phục có 2 điều (1, 2), đi đến nhà cư sĩ có 24 điều (3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 48), ăn uống có 22 điều (26, 27, 28, 29, 30, 31, 32, 33, 34, 35, 36, 37, 38, 39, 40, 41, 42, 43, 44, 45, 46, 47), vệ sinh có 3 điều (49, 50, 51), thuyết pháp có 20 điều (52, 53, 54, 55, 56, 57, 58, 59, 86, 87, 88, 89, 90, 91, 92, 96, 97, 98, 99, 100), về tháp có 26 điều (60, 61, 62, 63, 64, 65, 66, 67, 68, 69, 70, 71, 72, 73, 74, 75, 76, 77, 78, 79, 80, 81, 82, 83, 84, 85), đi đường có 3 điều (93, 94, 95).
Bảy pháp dứt sự tranh cãi là 7 cách giải quyết tranh cãi xảy ra thuộc 4 trường hợp khi sống trong Tăng(9).
Hầu như các giới điều trong giới bổn thuộc chỉ trì, tức giữ giới thì không được làm, trừ một số điều phải tuân theo chỉ dẫn trong nội dung các giới điều. Các giới điều trên được áp dụng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể nhằm bảo vệ Tỳ-kheo có đời sống phạm hạnh, oai nghi để làm mô phạm hướng dẫn tín chúng, đồng thời bảo vệ Tăng đoàn thanh tịnh, hòa hợp để làm cho Phật pháp trường tồn như câu nói “giới luật còn là Phật pháp còn”. Nói cách khác, một Tỳ-kheo có thể thành tựu Thánh đạo nếu giữ đủ giới bổn Tỳ-kheo làm nền tảng để tu tập định và tuệ. Một vị Tỳ-kheo giữ đủ giới bổn thì có đời sống phạm hạnh, sống thiểu dục tri túc thì đã làm lợi ích cho đời vì có thể làm nơi nương tựa cho tín chúng. Huống chi, một Tỳ-kheo chứng A-la-hán, hết tham sân si, thì không thể nào không đem lại lợi lạc cho nhiều người. Một bậc Thánh làm lợi ích cho đời thì không gọi Bồ-tát thì gọi là gì theo tinh thần Bồ-tát?
Mười giới Bồ-tát liên quan đến thân có 4 điều (1, 2, 3, 5), đến khẩu có 3 điều (4, 6, 7), đến ý có 3 điều nhưng cũng phải biểu hiện ra thân khẩu mới nhận biết và tạo nghiệp (8, 9, 10). Trong đó Tỳ-kheo thì không buôn bán huống gì bán rượu. Tỳ-kheo theo giới luật thì không bỏn xẻn, không được giận hờn và không tà kiến. Cho nên, Tỳ-kheo đã thọ trì 250 giới rồi thì 10 giới trọng này trở nên trùng lặp. Cần nói thêm, giữ 10 giới Bồ-tát cũng thuộc loại chỉ trì, tức không làm là giữ giới.
48 giới nhẹ (khinh) tạm phân như sau: liên quan đến thân có 23 điều (1, 2, 3, 4, 6, 9, 10, 11, 12, 14, 17, 20, 21, 25, 26, 27, 28, 29, 30, 32, 37, 38, 47), liên quan đến khẩu có 9 điều (5, 7, 13, 15, 16, 18, 19, 42, 46), liên quan đến ý nhưng cũng phải biểu hiện ra thân và khẩu mới tạo nghiệp có 17 điều (8, 21, 22, 23, 24, 31, 33, 34, 35, 36, 39, 40, 41, 43, 44, 45, 48).
Gần hết 48 điều giới đều tương đương với các điều giới trong giới bổn mà Tỳ-kheo đương nhiên phải thọ trì như phải kính thầy bạn, không uống rượu, dạy người sám hối, thỉnh thuyết pháp, đi nghe pháp, chăm sóc người bệnh, không được chứa khí cụ sát sinh, không đi sứ, không buôn bán, không hủy báng người, không đốt rừng, giảng pháp đúng thứ tự trình độ, không quyên tiền, không truyền giới nếu không thông luật, không nói hai lưỡi đâm thọc, không được trả thù, không kiêu mạn rồi không học pháp, tận tâm dạy đệ tử, tri chúng khéo léo, không được thọ lợi dưỡng riêng, không nhận cúng dường riêng, không thỉnh Tăng riêng, không sống tà mạng, không làm quản lý cho cư sĩ, không được mua bán dù là hình tượng Phật (nhưng thời Phật không có hình tượng), không bán đồ làm tổn hại chúng sinh, không tà nghiệp, không được bỏ tâm Bồ-đề (tâm xuất gia), không vào chỗ hiểm nạn, phải tôn ti trật tự theo tuổi hạ, phải tu phước huệ, bình đẳng truyền giới, không vì lợi làm thầy, giảng pháp độ người nếu họ cầu thỉnh, phạm giới phải sám hối, giáo hóa độ người, thuyết pháp chân thật đúng pháp, không hạn chế Tăng Ni phi pháp, không phá diệt Phật pháp (1, 2, 5, 6, 7, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 16, 17, 18, 19, 21, 22, 23, 25, 26, 27, 28, 29, 30, 31, 32, 33, 34, 37, 38, 39, 40, 41, 42, 43, 45, 46, 47, 48).
Trong 48 giới khinh, giữ giới bao gồm chỉ trì và tác trì. Chỉ trì có nghĩa không làm là giữ giới, như không uống rượu, không ăn ngũ tân… Tác trì có nghĩa phải làm là giữ giới như phóng sinh, cúng dường, đi nghe pháp…
Trong 48 giới, có một số giới điều không có trong giới bổn như không ăn thịt, không ăn ngũ tân; và có nhiều điều rất mơ hồ như có tâm trái bỏ Đại thừa, dạy giáo lý ngoài Đại thừa, học pháp Đại thừa, phóng sinh, phát nguyện, phát thệ, cúng dường kinh luật (3, 4, 8, 15, 20, 24, 35, 36, 44).
Như vậy, một Tỳ-kheo thọ giới Cụ túc mà thọ thêm giới khinh của Bồ-tát là thọ thêm 9 điều khác biệt vừa nêu. Trong đó, nổi bật là không ăn thịt và ngũ tân (trong giới bổn Phật không cấm) cùng khái niệm Đại thừa. Một Tỳ-kheo theo Bắc truyền có thể không ăn thịt, tức ăn chay. Tuy nhiên, một Tỳ-kheo không được học kinh Pāli, phải phóng sinh, cúng dường kinh luật thì không mấy ai làm theo được. Một Tỳ-kheo chân chánh đều có phát thệ và phát nguyện, tức phát nguyện tu tập bản thân để đạt Thánh quả và giáo hóa vì lợi ích số đông, vì hạnh phúc số đông… Người xuất gia chân chánh không thể không phát nguyện đạt Thánh quả, và làm lợi ích cho nhiều người.
Qua phân tích giới điều trong giới bổn (250 giới) và giới Bồ-tát (58 giới), hầu hết nội dung giống nhau, chỉ khác 9 điều như đã nêu trên. Một số vấn đề đặt ra:
Có cần thiết bắt buộc một Tỳ-kheo phải thọ thêm giới Bồ-tát không?
Một Tỳ-kheo thọ giới Cụ túc có đầy đủ điều kiện để tu tập và phụng sự tha nhân, vậy thì tại sao phải thọ thêm giới Bồ-tát?
Một Tỳ-kheo thọ cả 2 loại giới có thể giữ gìn trọn vẹn không?
Một Tỳ-kheo chỉ thọ giới Cụ túc và một Tỳ-kheo vừa thọ giới Cụ túc và giới Bồ-tát có gì khác nhau trong thực tế cuộc sống?
Theo giới Cụ túc (250 giới), nếu Tỳ-kheo vi phạm giới thuộc nhóm nào thì Tăng căn cứ theo luật mà cho vị ấy sám hối hay cho ra khỏi Tăng đoàn.
Theo giới Bồ-tát, vị thọ giới Bồ-tát vi phạm thì tự giác sám hối chứ không có luật quy định xử tội.
Từ sự phân tích ở trước, con cho rằng giới Bồ-tát được soạn ra nhằm cho đối tượng không phải Tỳ-kheo và không sống như Tăng đoàn Tỳ-kheo. Một Tỳ-kheo không nên bắt buộc phải thọ giới Bồ-tát. Ngược lại, một cư sĩ hay tu sĩ Đại thừa (tạm gọi xuất gia) có thể thọ giới Bồ-tát (không thọ giới Cụ túc) để tu tập bản thân và phụng sự chúng sinh theo tâm nguyện. Họ có thể sống tập thể theo quy định riêng của họ.
------------------------------------
(1)Viên Trí, Ý nghĩa giới luật, Hà Nội: NXB.Tôn Giáo, 2004, tr.47. (Theo các học giả, giới luật có thể được Phật chế từ năm thứ 5 sau khi có Tăng đoàn nhưng đến năm thứ 13 mới thiết lập giới bổn).
(2)Ưu-bà-tắc giới kinh, xem https://giacngo.vn/gioi-bo-tat-tai-gia-post15448.html, truy cập ngày 2-9-2025.
(3)Nương tựa y phấn tảo, nương tựa trên sự khất thực, nương tựa gốc cây ngủ nghỉ, nương tựa thuốc men.
(4)Bị người mắng không nên mắng lại, bị người giận không nên giận lại, bị người giỡn cợt không nên giỡn cợt lại, bị người đánh không nên đánh lại.
(5)Giới đài viện chùa Huệ Nghiêm biên soạn, Việt Nam truyền giới chánh phạm, TP.HCM: NXB.Hồng Đức, 2022.
(6)Xem Thích Phước Sơn, Luật học tinh yếu, TP.HCM: NXB.Phương Đông, 2006, tr.283.
(7)Sđd, tr.283-284.
(8)Xem HT.Thích Trí Tịnh, Kinh Phạm võng Bồ-tát giới, Hà Nội: NXB.Tôn Giáo, 2012.
(9)Xem HT.Thích Thiện Hòa, Tỳ-Kheo giới kinh, Hà Nội: NXB.Tôn Giáo, 2007.
(NSGN - 356)
Thích Hạnh Chơn/Nguyệt san Giác Ngộ