Nghiên cứu được triển khai từ tháng 6 - 12/2025, dựa trên Khung chỉ số mức độ sẵn sàng tự chăm sóc sức khỏe của Liên đoàn Chăm sóc sức khỏe toàn cầu, gồm 4 yếu tố then chốt và 14 chỉ số thành phần. Nghiên cứu kết hợp phương pháp định tính và định lượng, thực hiện tại 4 địa phương gồm Phú Thọ, Bắc Ninh, TP. Huế và An Giang. Dữ liệu thu thập từ 5 cuộc phỏng vấn sâu với nhà hoạch định chính sách, 28 cuộc thảo luận nhóm với nhà quản lý, cán bộ y tế và người dân; cùng khảo sát định lượng với 171 cán bộ y tế và 418 người tiêu dùng.
Đại diện Viện Chiến lược và Chính sách y tế trình bày kết quả nghiên cứu. Ảnh: YT
Kết quả cho thấy, Việt Nam đạt 3,04 điểm trên thang 4 điểm, xếp sau Singapore, Úc và Đức trong số 10 quốc gia được so sánh. Điểm số của 4 yếu tố then chốt gồm: Sự ủng hộ và chấp nhận của các bên liên quan (2,79 điểm); Trao quyền cho bệnh nhân và người tiêu dùng (3,06 điểm); Chính sách y tế về tự chăm sóc sức khỏe (3,05 điểm); Môi trường pháp lý (3,26 điểm).
Trong 14 chỉ số thành phần, có 9 chỉ số đạt từ 3 điểm trở lên, phản ánh mức độ sẵn sàng tương đối tốt nhưng chưa đồng đều.
Ở nhóm "Sự ủng hộ và chấp nhận của các bên liên quan", chỉ số "Nhân viên y tế tin tưởng và ủng hộ tự chăm sóc sức khỏe" đạt 3,03 điểm; 73,1% cán bộ y tế cho biết thường xuyên tư vấn người bệnh tự chăm sóc sức khỏe. Trong khi đó, chỉ số "Người dân tin tưởng và ủng hộ tự chăm sóc sức khỏe" chỉ đạt 2,38 điểm, cho thấy người dân vẫn còn dè dặt, dù sẵn sàng tự sử dụng thuốc không kê đơn cho các bệnh nhẹ.
Nhóm "Trao quyền cho bệnh nhân và người tiêu dùng" đạt 3,06 điểm, trong đó chỉ số "Tự xét nghiệm" đạt 3,36 điểm. Ngược lại, khả năng tiếp cận dữ liệu sức khỏe cá nhân (2,69 điểm) và công cụ số hỗ trợ tự chăm sóc sức khỏe (2,91 điểm) mới ở mức trung bình.
“Môi trường pháp lý" là nhóm chỉ số có điểm cao nhất (3,26 điểm). Việc tiếp cận và phân phối sản phẩm tự chăm sóc sức khỏe đạt 3,75 điểm, song cũng tiềm ẩn rủi ro về chất lượng sản phẩm trên các kênh trực tuyến. Chỉ số "Quảng cáo và giá" đạt 2,72 điểm do Việt Nam áp dụng quy định quảng cáo chặt chẽ đối với dược phẩm.
Dù mức độ sẵn sàng về tự chăm sóc sức khỏe của Việt Nam đang ở mức khá tốt so với khu vực, nghiên cứu cho thấy cần tiếp tục tập trung vào việc nâng cao nhận thức người dân, tăng cường năng lực tư vấn của cán bộ y tế, và cải thiện khả năng tiếp cận thông tin chính thống.
Theo đó, nghiên cứu chỉ ra các ưu tiên trong thời gian tới bao gồm: đẩy mạnh truyền thông chính thống về tự chăm sóc sức khỏe; đẩy nhanh triển khai hồ sơ sức khỏe điện tử tích hợp VneID nhằm mở rộng khả năng người dân tự tra cứu lịch sử khám chữa bệnh, xét nghiệm, thuốc. Thúc đẩy áp dụng nhãn điện tử cho thuốc, đặc biệt là thuốc không kê đơn nhằm tăng cường tiếp cận thông tin về thuốc. Cùng với đó, thí điểm các mô hình tự chăm sóc sức khỏe tại cộng đồng làm cơ sở xây dựng chiến lược, kế hoạch Quốc gia về tự chăm sóc sức khỏe.
Nam Anh