Viện dưỡng lão không chỉ là nơi ở, mà là nơi người cao tuổi cần được đảm bảo cả sức khỏe thể chất lẫn tinh thần. Ảnh: Đức Trân.
Chênh lệch giữa dịch vụ công và tư
Trong bức tranh già hóa dân số ngày càng rõ nét, hệ thống chăm sóc người cao tuổi ở Việt Nam đã dần hình thành hai cực: công lập và tư nhân. Cả hai đều đang gánh cùng một trách nhiệm – chăm lo sức khỏe, tinh thần cho lớp người đi trước – nhưng với hai cách tiếp cận khác biệt.
Trong đó, khối công lập vẫn đóng vai trò nòng cốt, là điểm tựa chính cho nhóm người cao tuổi thuộc diện bảo trợ xã hội. Tại Trung tâm Bảo trợ xã hội số 3 (Hà Nội) – một trong những cơ sở hoạt động hiệu quả trong chăm sóc người cao tuổi, hệ thống chăm sóc được tổ chức khá bài bản. Trung tâm có bốn phòng chức năng, trong đó hai phòng chuyên sâu về y tế và phục hồi chức năng. Người cao tuổi khi vào trung tâm được khám sức khỏe, phân loại tình trạng để bố trí nơi ở phù hợp. Cơ sở được trang bị thiết bị khám chữa bệnh ban đầu, đội ngũ y tế có thể cấp thuốc và xử lý các bệnh thông thường.
Trong khi đó, khối tư nhân và xã hội hóa phát triển nhanh trong những năm gần đây, với nhiều cơ sở hiện đại hơn, dịch vụ chuyên biệt và đội ngũ nhân viên được đào tạo bài bản. Tại Trung tâm dưỡng lão Diên Hồng (Hà Nội), mỗi người cao tuổi đều có hồ sơ sức khỏe riêng, được theo dõi bởi bác sĩ và điều dưỡng, có khu phục hồi chức năng, sinh hoạt tập thể và giao lưu văn nghệ định kỳ. Bà Trần Thị Thúy Nga – Phó Tổng giám đốc Trung tâm dưỡng lão Diên Hồng chia sẻ: “Nếu coi viện dưỡng lão là dịch vụ y tế – xã hội kết hợp, thì chi phí hiện nay mới chỉ phản ánh phần nhỏ công sức của người làm nghề.”
Thế nhưng, mức phí dao động từ 7 - 20 triệu đồng/tháng, cá biệt có nơi lên tới 40 triệu đồng/tháng khiến mô hình này chỉ phù hợp với nhóm có điều kiện, trong khi vẫn thiếu quy chuẩn hành nghề, chưa được bảo hiểm y tế (BHYT) chi trả, nên khó mở rộng đại trà.
Những mô hình nhân văn và linh hoạt
Bên cạnh hai trụ cột công – tư, nhiều mô hình chăm sóc người cao tuổi mang tính nhân văn sâu sắc đã và đang hình thành. Dù quy mô nhỏ, các cơ sở tôn giáo, cộng đồng hay dịch vụ chăm sóc bán trú lại góp phần quan trọng vào việc “lấp khoảng trống” mà hệ thống chính thống chưa đáp ứng được.
Nhà dưỡng lão tình thương Vinh Sơn (TPHCM) – thuộc Tu viện Nữ tử Bác ái Vinh Sơn là một ví dụ tiêu biểu. Từ khi thành lập, nơi đây đã cưu mang hơn 200 cụ bà không nơi nương tựa, lo ăn ở, thuốc men, chăm sóc miễn phí đến cuối đời.
Bên cạnh các mô hình chăm sóc tập trung, nhiều hình thức chăm sóc người cao tuổi tại cộng đồng cũng đang phát triển mạnh mẽ. Hội Người cao tuổi Việt Nam hiện có mạng lưới gần 60.000 câu lạc bộ trên cả nước – nơi người cao tuổi rèn luyện thể chất, giao lưu văn hóa, chia sẻ kinh nghiệm sống và được tư vấn sức khỏe. Nhiều mô hình do Trung ương Hội Chữ thập đỏ phối hợp triển khai còn có đội ngũ tình nguyện viên hỗ trợ chăm sóc tại nhà cho người cao tuổi khó khăn.
Mô hình Câu lạc bộ Liên thế hệ tự giúp nhau đã trở thành điểm sáng của nhiều địa phương. Hơn 3.500 câu lạc bộ với khoảng 170.000 thành viên tại các tỉnh thành đang giúp người cao tuổi duy trì sinh hoạt, tập luyện, vay vốn nhỏ, chăm sóc lẫn nhau và chia sẻ kinh nghiệm sống. Đây là mô hình được đánh giá phù hợp với văn hóa Việt Nam – nơi người cao tuổi vẫn muốn ở nhà, nhưng được cộng đồng quan tâm, hỗ trợ. Tuy nhiên, hầu hết câu lạc bộ vẫn hoạt động dựa vào nguồn tài trợ dự án, thiếu kinh phí và đội ngũ tình nguyện viên chưa được đào tạo bài bản.
Một hướng khác đang manh nha là dịch vụ chăm sóc ban ngày (daycare/bán trú) – hình thức người cao tuổi đến trung tâm sinh hoạt, tập luyện, phục hồi chức năng vào ban ngày và trở về nhà vào buổi tối. Trung tâm Nhân Ái Daycare (Hà Nội) là đơn vị tiên phong, cung cấp dịch vụ từ 600.000 đồng/ngày đến 15 triệu đồng/tháng tùy gói. Một số viện dưỡng lão tư nhân như Thiên Đức, Orihom hay các cơ sở y tế như Bệnh viện 199 (Đà Nẵng), Bệnh viện Kusumi – Trường Đại học Y khoa Tokyo Việt Nam (Ecopark, Hưng Yên) cũng đã triển khai mô hình tương tự, kết hợp chăm sóc và phục hồi chức năng. Dù mang lại nhiều lợi ích – giảm gánh nặng cho gia đình, duy trì sự gắn bó của người cao tuổi với xã hội – song mức chi phí cao và thiếu hành lang pháp lý khiến mô hình này mới chỉ phổ biến ở các đô thị lớn.
Cung chưa đủ cầu
Theo thống kê của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (cũ), cả nước hiện có hơn 370 cơ sở chăm sóc người cao tuổi, trong đó khoảng 120 cơ sở công lập và hơn 250 cơ sở ngoài công lập (tư nhân, tôn giáo, từ thiện). Nhưng con số này chỉ đáp ứng được 1–2% nhu cầu thực tế, và phân bố rất không đồng đều, tập trung chủ yếu ở Hà Nội, TPHCM và các tỉnh phía Nam, trong khi hầu hết các địa phương miền núi, trung du hoặc nông thôn chưa có mô hình chính thức nào.
Không dừng lại tại đó, nhìn từ những mô hình đã có – từ công lập, tư nhân đến tôn giáo và cộng đồng – có thể thấy mạng lưới chăm sóc người cao tuổi ở Việt Nam đang vận động nhanh nhưng thiếu đồng bộ. Nhiều cơ sở được đầu tư bài bản, song chất lượng chăm sóc giữa các mô hình lại rất khác nhau. Chính ở điểm này, các chuyên gia cho rằng điều cần bàn không chỉ là có bao nhiêu viện dưỡng lão, mà là chăm sóc ở đó có thực sự đảm bảo chất lượng, an toàn và nhân văn hay không.
PGS.TS Phạm Tiến Nam - Trưởng khoa Công tác xã hội (ĐH Y tế công cộng) nhấn mạnh yếu tố công nghệ và an toàn. Hầu hết viện dưỡng lão chưa được trang bị hệ thống cảnh báo y tế, thiết bị giám sát hoặc phần mềm quản lý chăm sóc. Trong khi đó, tại các nước phát triển, hệ thống cảm biến, đồng hồ theo dõi sức khỏe, hay thiết bị trợ giúp vận động đã trở thành tiêu chuẩn bắt buộc trong chăm sóc người cao tuổi.
Trên thực tế, chất lượng chăm sóc – yếu tố quyết định sự phát triển bền vững của hệ thống – vẫn còn nhiều vấn đề, kể cả ở khối tư nhân, nơi thường được xem là có chất lượng chăm sóc tốt nhất. Nguyên nhân chính cần kể tới là thiếu nhân lực chuyên môn cao.
Theo đánh giá chung của các chuyên gia y tế, một viện dưỡng lão đạt chuẩn không chỉ có cơ sở khang trang, mà cần đội ngũ y tế – điều dưỡng được đào tạo chuyên biệt, có hệ thống thiết bị theo dõi và phục hồi chức năng, và môi trường an toàn, thân thiện cho người cao tuổi. Khi những tiêu chí đó chưa được luật hóa và giám sát, chất lượng chăm sóc người cao tuổi ở Việt Nam vẫn mang tính “điểm sáng đơn lẻ”, chưa trở thành hệ thống.
Trong bối cảnh tốc độ già hóa ngày càng nhanh, việc xây dựng bộ tiêu chuẩn quốc gia về chăm sóc người cao tuổi – bao gồm yêu cầu về nhân lực, thiết bị, công nghệ và an toàn y tế – đang là đòi hỏi cấp thiết. Bởi lẽ, chất lượng của một viện dưỡng lão không thể đo bằng số giường hay cơ sở vật chất bên ngoài, mà bằng mức độ an toàn và bình an mà nó mang lại cho mỗi người cao tuổi khi sống ở đó.
(còn nữa)
Đức Trân