Tàu biển Pacific World đưa khoảng 1.700 du khách đến Quảng Ninh. (Ảnh: Đức Hiếu/TTXVN)
Vừa qua Nghị quyết 72-NQ/TW của Bộ Chính trị “Về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân” đã được ban hành.
Quan điểm chỉ đạo của Đảng ta rất rõ ràng: Sức khỏe là vốn quý nhất của con người, là nền tảng quan trọng nhất cho hạnh phúc của mọi người, cho sự tồn vong của dân tộc và sự phát triển thịnh vượng, bền vững của đất nước.
Bên cạnh đó, Nghị quyết cũng nhấn mạnh nhiệm vụ phát triển y tế chuyên sâu đáp ứng yêu cầu thực tiễn và hội nhập quốc tế; tập trung phát triển một số trung tâm y tế chuyên sâu chất lượng cao ngang tầm khu vực, quốc tế để thu hút, phát triển du lịch chữa bệnh tại Việt Nam, giảm xu hướng người dân ra nước ngoài chữa bệnh.
Để làm rõ hơn, ông Hà Anh Đức - Cục trưởng Cục Quản lý Khám, chữa bệnh (Bộ Y tế), đã có những chia sẻ với phóng viên xung quanh vấn đề phát triển du lịch y tế.
Du lịch y tế mang lại nguồn thu lớn
- Ông có thể cho biết Việt Nam có những tiềm năng như thế nào để phát triển du lịch y tế?
Ông Hà Anh Đức: Du lịch y tế đang nổi lên như một xu hướng toàn cầu, mang lại nguồn thu lớn cho nhiều quốc gia trong khu vực. Với lợi thế tự nhiên, an ninh và con người, Việt Nam được đánh giá có tiềm năng lớn để phát triển lĩnh vực này. Tuy nhiên, để bứt phá, ngành y tế và du lịch Việt Nam cần phối hợp chặt chẽ, khắc phục những hạn chế về chất lượng, quảng bá, chính sách và cơ chế quản lý.
Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để trở thành điểm đến y tế-du lịch hấp dẫn. Với đường bờ biển dài, nhiều danh lam thắng cảnh, khí hậu đa dạng, cùng với hình ảnh đất nước an toàn, con người thân thiện, Việt Nam đã để lại nhiều ấn tượng tốt trong mắt bạn bè quốc tế.
Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam những năm gần đây tăng nhanh nhờ chính sách mở cửa và quảng bá mạnh mẽ. Đây chính là nguồn khách quan trọng cho du lịch y tế, bởi du khách quốc tế không chỉ tìm kiếm trải nghiệm nghỉ dưỡng, văn hóa mà còn có nhu cầu chăm sóc sức khỏe, làm đẹp, nha khoa hay các dịch vụ hỗ trợ sinh sản.
- Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam những năm gần đây tăng nhanh sẽ tạo ra nguồn thu lớn, ông có thể phân tích rõ hơn những lợi ích những nguồn thu từ y tế du lịch?
Ông Hà Anh Đức: Thống kê cho thấy, số lượng kiều bào và khách quốc tế đến Việt Nam du lịch, kết hợp tìm kiếm dịch vụ y tế ngày càng tăng.
Trước COVID-19, cả nước đón khoảng 300.000 lượt khách, hiện nay con số đã đạt hàng chục triệu và tiếp tục có xu hướng tăng. Trong số này, tỷ lệ du khách quan tâm đến các dịch vụ y tế ngày càng nhiều.
So sánh trong khu vực, Thái Lan đã đạt doanh thu khoảng 6 tỷ USD/năm từ du lịch y tế, Singapore khoảng 1,5-2 tỷ USD, Nhật Bản khoảng 4 tỷ USD. Trong khi đó, Việt Nam hiện mới chỉ dừng ở vài trăm triệu USD - một con số khá khiêm tốn nếu đặt trong tương quan với tiềm năng sẵn có.
Lợi thế về mức giá cạnh tranh
- Thực tế cho thấy, có rất nhiều người lựa chọn Việt Nam để khám chữa bệnh, trong đó có không ít Kiều bào, theo ông, ngành y tế có những ưu điểm gì để thu hút trong công tác khám chữa bệnh?
Ông Hà Anh Đức: Năm 2024, Việt Nam có tên trong danh sách 110 quốc gia có hệ thống chăm sóc sức khỏe tốt nhất thế giới, với vị trí xếp hạng 89/110 về chỉ số tổng thể. Việt Nam có điểm số cao về chỉ số cơ sở hạ tầng y tế và năng lực của đội ngũ chuyên gia y tế.
Một lợi thế lớn của y tế Việt Nam là mức giá cạnh tranh, thời gian chờ đợi khám chữa bệnh ngắn, dịch vụ thân thiện, nhanh chóng. Giá dịch vụ y tế tại Việt Nam chỉ bằng khoảng 30-50% so với các quốc gia như Singapore hay Thái Lan.
Tiến sỹ Hà Anh Đức - Cục trưởng Cục Quản lý Khám chữa bệnh (Bộ Y tế). (Ảnh: T.G/Vietnam+)
Chi phí cạnh tranh là một trong những lợi thế lớn để thu hút, phát triển du lịch y tế ở Việt Nam. Chẳng hạn như trong lĩnh vực nha khoa, trồng một chiếc implant ở Việt Nam mất khoảng 1.000-1.200 USD (khoảng 25 đến 30 triệu đồng), bằng 1/5 so với Mỹ (khoảng 5.000 USD) và thấp hơn nhiều so với Thái Lan. Riêng lĩnh vực nha khoa, tại Thành phố Hồ Chí Minh mỗi năm thu 3.500 tỷ đồng.
Với dịch vụ IVF (thụ tinh trong ống nghiệm), chi phí tại Việt Nam chỉ bằng 1/3 so với Thái Lan và 1/5 so với Mỹ, trong khi chất lượng đảm bảo, thời gian thực hiện nhanh. Đây là lợi thế lớn để thu hút khách hàng từ các nước phát triển và khu vực có nhu cầu cao.
Ngoài ra, thực hiện dịch vụ y tế ở Việt Nam cũng tiết kiệm được các chi phí gián tiếp do thời gian đợi chờ được phẫu thuật hay chụp cộng hưởng từ (MRI), cắt lớp vi tính (CT)… nhanh, trong khi ở các nước có khi phải đợi 6 tháng mới thực hiện.
- Đó là những lợi thế của ngành y tế đang phát huy để thu hút khách quốc tế. Tuy nhiên, việc phát triển y tế du lịch vẫn còn khá nhiều khó khăn, ông có thể nói rõ hơn về điều này?
Ông Hà Anh Đức: Hiện nay, dù kỹ thuật y tế của Việt Nam đã có bước tiến lớn, chi phí cạnh tranh, nhưng chưa được chuẩn hóa theo tiêu chuẩn toàn cầu.
Thực tế cho thấy còn một khó khăn lớn tồn tại đó là chất lượng dịch vụ y tế của Việt Nam chưa hội nhập sâu rộng với bảng chất lượng toàn cầu. Việt Nam có 52.000 phòng khám, hơn 400 bệnh viện tư nhân, 1.600 bệnh viện công lập, nhưng đến nay chỉ có một bệnh viện công lập là Bệnh viện Huyết học-Truyền máu Thành phố Hồ Chí Minh và một số bệnh viện tư nhân đạt được tiêu chí JCI. Chứng nhận JCI (Joint Commission International) - hệ thống quản lý chất lượng y tế được ví như “xếp hạng khách sạn” với khoảng 1.300 tiêu chí khắt khe.
Chẩn đoán hình ảnh có sự hỗ trợ của AI tại Bệnh viện Quốc tế Thái Nguyên. (Ảnh: Hoàng Nguyên/TTXVN)
Ngoài ra, thiếu quảng bá thương hiệu cũng là điểm yếu lớn. Dù có dịch vụ giá hợp lý, kỹ thuật tốt, nhưng khách hàng quốc tế ít biết đến các cơ sở y tế Việt Nam, đồng thời, cơ chế bảo hiểm, tài chính, visa, xử lý tranh chấp còn thiếu đồng bộ, khiến khách hàng và công ty bảo hiểm quốc tế chưa thực sự yên tâm khi lựa chọn.
Đáng chú ý, ngay cả với khách du lịch thông thường, nhu cầu về hệ thống cấp cứu ngoại viện cũng là điều kiện quan trọng để họ an tâm khi đến Việt Nam. Đây là yếu tố bổ trợ không thể thiếu trong phát triển du lịch y tế.
Cần sự phối hợp liên ngành
- Theo ông, Việt Nam đang có những giải pháp như thế nào để đưa du lịch y tế trở thành một ngành kinh tế mang lại giá trị cao?
Ông Hà Anh Đức: Vừa qua, Nghị quyết 72-NQ/TW ban hành đã đề ra mục tiêu phát triển các trung tâm y tế chuyên sâu nhằm giảm tải cho bệnh viện lớn, đồng thời đáp ứng nhu cầu điều trị chất lượng cao ngay trong nước. Song song với đó, vấn đề bệnh nhân chưa đi đúng tuyến cũng cần được giải quyết bằng cải thiện công tác điều phối và truyền thông y tế.
Để nâng cao vị thế, ngành y tế đang tập trung xây dựng các gói dịch vụ mũi nhọn: thẩm mỹ, nha khoa, mắt, chẩn đoán hình ảnh, hỗ trợ sinh sản (IVF)… Đây là những lĩnh vực Việt Nam có thế mạnh, chi phí thấp hơn nhiều so với các nước phát triển.
Các dịch vụ này sẽ được quảng bá qua diễn đàn du lịch, công ty lữ hành quốc tế, kết hợp với giải pháp chi trả bảo hiểm và hồ sơ bệnh án điện tử liên thông. Không chỉ kết nối trong nước, hồ sơ bệnh án còn có thể chia sẻ với công ty bảo hiểm và cơ sở y tế ở nước sở tại, đảm bảo tính minh bạch và giảm rủi ro tranh chấp.
Cùng với đó, Việt Nam sẽ chuẩn hóa chất lượng dịch vụ theo tiêu chí quốc tế: từ cơ sở vật chất, phòng ốc, quy trình kỹ thuật, đến đội ngũ y tế được đào tạo ngoại ngữ. Các tiêu chí này sẽ được công khai trên các nền tảng thông tin, giúp khách hàng quốc tế dễ dàng tiếp cận, so sánh và lựa chọn.
Du lịch y tế là lĩnh vực liên ngành. Để thành công, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa y tế, du lịch, công an, ngoại giao, tài chính, cùng sự hỗ trợ của doanh nghiệp và cộng đồng. Chính vì vậy, Bộ Y tế đã tham mưu để đề án này được xây dựng ở cấp Chính phủ, thay vì chỉ dừng ở cấp Bộ.
Mục tiêu dài hạn của du lịch y tế không chỉ là tăng nguồn thu mà còn là khẳng định vị thế của ngành y tế Việt Nam. Khi chất lượng cơ sở vật chất, chuyên môn, trang thiết bị và quản trị hệ thống được nâng cao, người dân sẽ yên tâm điều trị trong nước, đồng thời Việt Nam có thể trở thành điểm đến y tế uy tín trong khu vực.
Xin trân trọng cảm ơn ông./.
(Vietnam+)