Núi Bà - Bidoup là 1 trong 4 trung tâm bảo tồn đa dạng sinh học của nước ta, bên cạnh Hoàng Liên Sơn, rừng mưa Bắc Trung bộ và cao nguyên Ngọc Linh. Đây còn là 1 trong 221 trung tâm chim đặc hữu của thế giới. Khu rừng có nhiều nguồn gen động thực vật quý hiếm, đặc trưng cho hệ sinh thái rừng á nhiệt đới.
1. Xa xưa, Đưng KNớ có tên gọi là Dưng Kanrớh, tiếng Cơ Ho nghĩa là “bãi bằng huyền thoại”. Gọi là bãi bằng nhưng để đến được nơi này phải vượt qua con đường ngoằn ngoèo hết dốc tới đèo, hết thung tới rừng. Đưng KNớ còn được biết đến là xứ sở ruồi vàng. Hơn chục năm về trước, nơi đây dày đặc loài côn trùng có màu kim loại sáng bóng, tụ tập từng đàn.
Một góc buôn Đưng KNớ.
Con đường 722 uốn lượn như sợi chỉ mảnh vắt qua những dãy đồi xanh mướt, một đầu nối với phố thị Đà Lạt sầm uất, đầu kia dẫn về đại ngàn. Quãng đường hơn 50 cây số không có nhà dân, không có vườn tược, chỉ một màu xanh. Thỉnh thoảng mới bắt gặp chiếc xe máy đi cùng chiều hoặc hướng ngược lại. Hai bên đường, ban đầu là những đồi thông, sau chen chúc thêm nhiều loài cây khác nhau, từ thấp đến cao, từ những cây bụi nhỏ bé đến những cây cổ thụ to lừng lững, xòe tán lá che kín cả ánh nắng đang cố len vào.
Buôn Đưng KNớ như một chấm nhỏ lọt thỏm giữa đại ngàn, giữa điệp trùng núi non, như một nét sổ mộc mạc, tách biệt khỏi phố phường ồn ã. Buôn có hơn trăm nóc nhà tụm vào nhau thành từng cụm. Trái với tưởng tượng của tôi, nhà cửa đồng bào không phải nhà tre, nhà sàn mà là nhà tường khang trang, xen kẽ vài ngôi nhà gỗ truyền thống đẹp mắt. Mỗi hộ gia đình đều tham gia giữ rừng và có nguồn thu nhập từ đó bên cạnh việc rẫy nương, dệt vải. Trên đường, bò heo gà vịt đi lại giữa máy cày xe máy, trông vừa có nét bình yên của miền rừng cao nguyên lại vừa mang hơi thở của cuộc sống hiện đại.
2. Những người phụ nữ ở đây đều thành thạo nghề truyền thống là dệt thổ cẩm. Con gái Cơ Ho Cil trưởng thành đều biết dệt. Những người già trong làng kể rằng nghề dệt có từ thời xa xưa, khi đàn ông biết vào rừng săn bắn thì phụ nữ đã biết dệt. Đi khắp buôn, hầu như nhà nào cũng bắt gặp hình ảnh người phụ nữ miệt mài bên khung, trông lặng lẽ mà đầy thơ mộng. Họ dệt váy, áo, chăn, túi đeo, những vật dụng cần thiết dùng trong gia đình, cho những sinh hoạt của buôn làng và theo đơn đặt hàng từ những cộng đồng làm nghề khác (như người Churu giỏi buôn bán chứ không giỏi dệt thổ cẩm).
Bà Bon Niêng KGlòng là lão nghệ nhân dệt thổ cẩm lâu năm nhất vùng. Năm nay đã sang tuổi 80, bà biết dệt thổ cẩm từ năm 15 tuổi. Suốt 65 năm không ngày nào rời khung dệt. Lúc chúng tôi đến, dù đang là giữa trưa, bà vẫn cần mẫn dệt. Khung dệt của bà cũng như của người Cơ Ho không cố định mà là bộ rời gồm 12 thanh gỗ có kích thước khác nhau. Bà KGlòng ngồi dưới sàn, hai chân duỗi thẳng giữ khung, một thanh khác buộc vào người, thêm vài thanh căng sợi để cố định tấm vải, rồi tùy hoa văn tùy màu sắc ở mỗi đoạn mà lắp các thanh khác nhau để thêm sợi rồi kéo siết chặt vào tấm vải. Những động tác tháo lắp thanh dệt trông như múa, cứ như thế những sợi chỉ riêng lẻ được nối lại với nhau thành tấm vải liền lạc, ngày một dài rộng thêm ra với nhiều hoa văn sinh động.
Bà tự hào khoe bà có 6 cô con gái, được bà đích thân truyền nghề, nay mỗi cô có gia đình riêng đều theo nghề dệt. Riêng cô út tên Bon Niêng KGút, sinh năm 1989, là người giỏi nhất, thừa hưởng nhiều năng khiếu nhất từ mẹ. KGút mới dệt 5 năm nay, nhưng ngoài những hoa văn truyền thống thì luôn sáng tạo ra những hoa văn hiện đại sinh động phù hợp với thị hiếu.
Bà KGlòng cho biết có nhiều công đoạn làm nên tấm thổ cẩm đẹp, từ kỹ thuật se sợi, kỹ thuật dệt, công đoạn nhuộm màu, và sự sáng tạo trong từng đường nét hoa văn thể hiện sự độc đáo của nghệ nhân trên từng tấm thổ cẩm.
Lão nghệ nhân Bon Niêng KGlòng bên khung dệt.
Hoa văn thổ cẩm gắn với núi rừng, với đời sống buôn làng, chủ yếu là kỷ hà, xoáy nước, bếp lửa, cầu thang, nhà sàn, xà gạt, cối chày giã gạo, cá nước chim trời, dòng sông con suối, cỏ cây chim thú, mặt trời ánh trăng… Tùy công dụng mỗi tấm vải mà dệt thành những hình thù khác nhau.
Nguyên liệu làm thổ cẩm từ sợi bông và màu. Người dân trồng bông trên nương, thu hoạch rồi tách hạt, phơi khô, cán, ép, kéo sợi, quay tơ. Ngày nay để tăng tính cạnh tranh, có thể dùng các loại len sẵn có trên thị trường, nhưng độc đáo và được ưa chuộng nhất, đắt hàng nhất vẫn là loại thổ cẩm làm từ sợi bông tự trồng, tự nhuộm, mềm nhẹ; mùa đông ấm áp, mùa hè mát mẻ.
Riêng màu thổ cẩm vẫn lấy từ thiên nhiên rừng núi. Màu vàng từ củ nghệ, màu cam từ hạt cari, màu đỏ từ vỏ thân cây lót, màu xanh từ lá cây drửm... Tùy mỗi loại cây mà có cách xử lý khác nhau để lấy màu, ngâm sợi bông vào, cho thêm bột vỏ sò và tro củ chuối vào nước nhuộm để sợi tơ bền màu. Màu sắc thổ cẩm mỗi dân tộc mỗi khác nhau, nếu như người Ê-đê chuộng sắc đỏ, người Mạ chuộng màu trắng thì người Cơ Ho và người MNông lại chuộng gam màu tối, xanh, đen. Mỗi màu sắc đều tượng trưng cho thế giới tự nhiên, màu xanh là màu núi rừng trời đất, màu vàng của ánh sáng, màu đỏ là sự đam mê, khát vọng, tình yêu…
Cũng như bà KGlòng, bà KNiêng năm nay ngoài 50 tuổi, biết dệt từ nhỏ nhưng chỉ dệt đồ dùng trong nhà những lúc rảnh rỗi. Từ 5 năm nay, khi ngày càng nhiều khách hàng đặt mua thổ cẩm, hai mẹ con mới tập trung làm, nghề diệt mang lại thu nhập chính của gia đình. KNiêng bảo rằng dệt được một tấm thổ cẩm mất 2 - 3 ngày tùy kích cỡ, tùy hoa văn. Trong câu chuyện với tôi, KBiêng, sinh năm 1988, con gái bà KNiêng, vừa căng sợi lên khung vừa thủ thỉ, em mới có con trai thôi, muốn sinh đứa con gái để còn truyền lại nghề dệt.
Ngày nay dù có nhiều biến đổi nhưng thổ cẩm luôn có dòng chảy của riêng mình. Thổ cẩm không thể thiếu trong các nghi thức vòng đời của cộng đồng các dân tộc cư ngụ giữa đại ngàn. Con trẻ sinh ra được mẹ bọc trong tấm tềnh ùi ấm áp, được mẹ địu trên lưng, ấp trên ngực cho đến lúc biết chạy, biết đi. Lễ cưới của người đồng bào không thể thiếu sắc màu thổ cẩm. Ngoài trang phục cưới còn là quà cô gái dâng tặng cha mẹ, họ hàng nhà chồng. Đến khi tiễn đưa người mất, thân xác được gói trong tấm thổ cẩm để về với núi rừng cỏ cây.
Lễ hội của buôn làng, những điệu múa xoang bên tiếng cồng chiêng, bên ánh lửa bập bùng không thể thiếu trang phục truyền thống làm từ thổ cẩm. Khi du lịch cộng đồng ngày càng phát triển, văn hóa các tộc người được chú trọng bảo tồn thì thổ cẩm càng có nhiều cơ hội vươn ra khỏi không gian đại ngàn, vượt đại dương theo chân những du khách nước ngoài say mê với thổ cẩm cùng bản sắc độc đáo của núi rừng.
Những ngôi nhà khang trang ở buôn Đưng KNớ.
Thổ cẩm cũng ghi dấu ấn trên bản đồ thời trang, khi lần đầu tiên nhà thiết kế Minh Hạnh đưa thổ cẩm của đồng bào Mạ, Cơ Ho cùng tơ lụa Bảo Lộc lên sàn diễn bên bờ hồ Xuân Hương, Đà Lạt vào năm 2018. Gần đây là bộ sưu tập “Thiên đường Tây Nguyên”, “Bơkau Lang LaBiang” của nhà thiết kế KJona, người con của buôn làng Cơ Ho trình diễn trong Festival Hoa Đà Lạt. “Rất vui, sau sự kiện ấy, toàn bộ thiết kế của tôi được khách hàng trong và ngoài nước đặt mua. Tôi nghĩ, thổ cẩm đã có giá trị mới, thỏa mãn thị hiếu đương đại”, KJona chia sẻ.
Ngắm tấm thổ cẩm mỗi lúc một dài thêm trên khung dệt, tôi liên tưởng đến dòng chảy róc rách giữa núi rừng, và dòng chảy ấy đang có hướng đi mới, vươn ra khỏi đại ngàn thâm u.
Hoàng Ngọc Thanh