Múa gậy sênh tiền đã trở thành nét đẹp truyền thống của đồng bào dân tộc Mông vùng cao, biên giới. Ảnh: Thủy Lê
Vũ điệu của nghi lễ và võ thuật cổ truyền
Gậy sênh tiền, đạo cụ chính của vũ điệu được chế tác tỉ mỉ từ tre hoặc trúc, dài chừng 1-1,2m. Trên thân gậy, người thợ đục 3 khấu, xâu vào đó những đồng xu bạc hay đồng xu đồng để khi múa sẽ phát ra âm thanh trong trẻo, vui tai. Một khấu còn lại để làm tay cầm, vững chắc mà gọn gàng. Hai đầu gậy, những chùm tua chỉ đỏ, vàng, xanh rực rỡ tung bay, góp phần tạo nên sự sinh động như ngọn lửa thắp sáng giữa không gian lễ hội. Khi gậy sênh tiền chuyển động, âm thanh “tinh teng”, “leng keng” vang lên như hòa cùng tiếng gió đại ngàn, tiếng suối chảy róc rách, tiếng lòng người Mông náo nức. Đó không chỉ là âm thanh của nhạc cụ, mà còn là tiếng ngân vọng của tâm linh, của ký ức cộng đồng.
Đồng bào dân tộc Mông không chỉ có điệu múa khèn, sáo Mông hay các làn điệu dân ca đã rất đỗi quen thuộc, mà còn có một "đặc sản" khác, đó là điệu múa sênh tiền. Múa gậy sênh tiền vốn là một phần trong “bộ binh khí” truyền thống của đồng bào. Bộ binh khí ấy gồm 18 loại nhạc cụ và vũ khí: khèn, chùy, đao, kiếm, gậy..., tất cả hòa quyện trong các nghi lễ, trong những ngày hội lớn của bản làng. Ngày xưa, điệu múa sênh tiền không chỉ để giải trí, mà mang trong nó chức năng tâm linh: diễn xướng nhằm xua đuổi tà ma, trấn an thần linh, bảo vệ cho sự bình yên của bản làng. Trong tang lễ hay lễ nghi cổ truyền, múa sênh tiền vẫn được gìn giữ, với các quy định như đi vòng 7 lần (nữ) hoặc 9 lần (nam) quanh nhà tiễn biệt người đã khuất, thể hiện lòng hiếu đạo và tình cảm cộng đồng sâu sắc. Người Mông quan niệm, tiếng ngân của đồng xu trên gậy tre có thể làm tan biến những điều xui rủi, gọi mời mùa màng tươi tốt và sự sung túc cho mỗi gia đình.
Các động tác múa cũng nhuốm màu võ thuật. Từng cú xoay người, từng động tác đá chân, nhảy cao, hạ thấp, di chuyển linh hoạt đều gợi nhắc đến những thế võ cổ truyền, vừa mềm dẻo, vừa mạnh mẽ. Nhịp gậy không đơn thuần gõ vào không khí, mà còn như phô diễn sức mạnh và bản lĩnh. Một bài múa cổ truyền đầy đủ có tới 18 người tham gia, mỗi người cầm một đạo cụ, phối hợp ăn ý cùng nhịp khèn, trống. Âm thanh rộn ràng, hình ảnh mạnh mẽ, hòa quyện thành một bức tranh nghệ thuật tập thể, nơi mỗi động tác đều mang tính biểu tượng.
Chị Giàng Thị Về, xã Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang cho biết, vũ điệu sênh tiền thường theo tốp múa lẻ 3, 5, 7 người, hoặc cũng có thể chẵn 2, 4, 6 người cùng nhau biểu diễn. Đây là một thể loại múa khó, đòi hỏi phải kết hợp cả chân, tay, hông và đầu. Điệu múa có nhiều bài khác nhau do người biểu diễn tự biên tập, nhưng đều từ 10 nhịp cơ bản mà phát triển ra. Nét đẹp của múa sênh tiền là sự kết hợp hài hòa giữa các động tác nhảy, múa, tung hứng phóng khoáng và âm thanh độc đáo từ cây gậy. Cũng giống như khèn Mông, điệu múa sênh tiền ẩn chứa những thế võ cổ truyền của người Mông. Những động tác xoay người, đá chân, thoạt nhìn, người xem nghĩ là múa, nhưng cũng là thế võ đấy. Những người biết múa sênh tiền ngày xưa hầu hết đều biết võ, chính cây gậy sênh tiền có thể trở thành binh khí chống kẻ thù, bảo vệ thôn bản. Trong đoàn diễu binh của người Mông, nghệ nhân múa sênh tiền luôn dẫn đầu, sau đó đến đội múa khèn và các đội binh khí khác.
Niềm tự hào
Thời gian trôi qua, điệu múa sênh tiền không còn giữ nguyên hình thức cổ xưa, mà đã được giản lược, cải biên để phù hợp với đời sống đương đại. Từ chỗ gắn liền với nghi lễ tâm linh, điệu múa đã bước ra sân khấu lễ hội, hòa vào các chương trình văn nghệ, thậm chí trở thành “đặc sản” du lịch của nhiều địa phương vùng cao.
Trong những dịp lễ hội, các thiếu nữ người Mông uyển chuyển với vũ điệu sênh tiền. Ảnh: Thủy Lê
Tuy giản lược, nhưng cái hồn vẫn còn đó. Một bài múa hiện nay thường bắt đầu bằng 11 nhịp cơ bản, sau đó phát triển linh hoạt tùy theo sự sáng tạo và kỹ năng của người múa. Những bước di chuyển nhanh nhẹn, những cú đánh gậy đầy nhịp điệu, những vòng xoay thướt tha kết hợp với tiếng khèn, tiếng trống, vẫn giữ được chất men say của truyền thống. Người múa vừa giữ nhịp, vừa vuốt dọc theo các đồng xu, đưa gậy chạm nhẹ vào vai, tay, chân... tạo nên những chuỗi âm thanh phong phú. Có lúc dồn dập như mưa rừng, có lúc trong trẻo như tiếng suối, lại có khi trầm hùng như tiếng trống vọng trong đêm. Tất cả tạo thành một bản giao hưởng đặc sắc, khó lẫn với bất kỳ điệu múa nào khác.
Ở nhiều bản làng vùng cao, biên giới, đặc biệt là các địa bàn có đồng bào Mông sinh sống, múa sênh tiền không chỉ đơn thuần là tiết mục văn nghệ, mà còn là niềm tự hào mang dấu ấn văn hóa. Mỗi khi bản mở hội, trai gái trong trang phục thổ cẩm rực rỡ, cầm trên tay gậy sênh tiền, hòa cùng tiếng khèn, tiếng trống, không khí như vỡ òa. Những vòng xoay, những bước nhảy, những tiếng leng keng vang lên nối dài ký ức, nhắc nhở cộng đồng về cội nguồn, về sức sống bền bỉ của dân tộc. Có người từng ví, múa sênh tiền chính là “bản sử thi bằng động tác”, ghi lại lịch sử đấu tranh và khát vọng chinh phục thiên nhiên của người Mông. Ở đó, ta thấy sự dẻo dai của con người miền núi, thấy khát vọng trường tồn trong từng bước nhảy, từng nhịp gõ.
Trong bối cảnh hội nhập, nhiều giá trị văn hóa truyền thống đứng trước nguy cơ mai một. Nhưng múa sênh tiền, nhờ sự gắn bó mật thiết với cộng đồng, vẫn giữ được sức sống mạnh mẽ. Ở các trường phổ thông dân tộc bán trú, nhiều thầy cô đã đưa điệu múa vào tiết học ngoại khóa, coi đó là cách để học sinh vừa rèn luyện thể lực, vừa nuôi dưỡng tình yêu văn hóa dân tộc. Các đồn Biên phòng trên tuyến biên giới cũng đồng hành cùng đồng bào trong việc gìn giữ, phát huy nét đẹp này. Những dịp tổ chức các sự kiện lớn như: “Ngày hội Biên phòng toàn dân”, “Xuân Biên phòng ấm lòng dân bản” hay các buổi giao lưu văn hóa, chiến sĩ Biên phòng và bà con cùng nhau múa sênh tiền, để tiếng ngân vang xa, kết nối cộng đồng, bồi đắp thêm tình đoàn kết quân dân. Đặc biệt, nhiều đội văn nghệ quần chúng của người Mông đã được thành lập, tham gia biểu diễn ở các hội diễn cấp huyện, cấp tỉnh, đưa sênh tiền bước ra khỏi bản làng, trở thành món quà tinh thần gửi tới du khách bốn phương. Mỗi điệu múa như một nhịp cầu nối, đưa hình ảnh con người vùng cao đến gần hơn với bạn bè.
Trong đời sống hiện đại, tiếng ngân leng keng của gậy sênh tiền vẫn không ngừng vang vọng. Nó gợi về những mùa lễ hội rực rỡ, gợi về khát vọng no đủ, tình yêu bền bỉ của con người với núi rừng. Và hơn hết, nó nhắc nhở cộng đồng người Mông hôm nay về trách nhiệm giữ gìn, để điệu múa ấy không chỉ sống trong ký ức, mà còn tỏa sáng trong tương lai. Giữa nhịp sống hiện đại, ta vẫn bắt gặp những chàng trai, cô gái Mông say sưa múa sênh tiền bên bếp lửa hội xuân, dưới ánh nắng mùa thu, hay trong các ngày hội văn hóa toàn dân. Tiếng gậy ngân vang, tua chỉ tung bay, những vòng xoay miệt mài..., tất cả như một lời khẳng định rằng, bản sắc văn hóa không bao giờ phai nhạt, chỉ cần chúng ta biết nâng niu, gìn giữ.
Thủy Lê