Ngày càng trở nên quý giá
Lịch khắc trên các thanh tre của người Mường, còn gọi là lịch Đoi/Roi. Bộ lịch này dựa trên sự quan sát chuyển động của mặt trăng và sao Đoi/ Roi để xác định tháng, đồng thời được sử dụng để định thời gian cho các hoạt động sản xuất, phong tục và nghi lễ trong cuộc sống người Mường.
Về mặt tâm linh, lịch tre là biểu hiện của sự kết nối giữa con người với vũ trụ và tổ tiên, là la bàn chỉ dẫn để sống hài hòa với trời đất. Trong bối cảnh hiện đại, khi các giá trị truyền thống đang bị mai một, lịch tre càng trở nên quý giá, bởi không chỉ là di sản vật chất mà còn là biểu tượng của bản sắc, ký ức và tinh thần độc lập của một dân tộc.
Nghệ nhân Nhân dân Bùi Văn Minh bên lịch tre phóng to.
Theo các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, lịch tre là minh chứng sống động cho tư duy thiên văn nông nghiệp cổ truyền, phản ánh cách người Mường xưa lý giải thế giới. Dù có nhiều điểm tương đồng với lịch âm, nhưng lịch Đoi mang bản sắc riêng, đậm tính quan sát và kinh nghiệm của cư dân bản địa. Đó không chỉ là công cụ tính ngày mà là cách con người sống thuận theo thiên nhiên, điều chỉnh hành vi theo nhịp trăng sao. Hơn nữa, nó còn chứa đựng tư duy hệ thống, nhân sinh quan, triết lý sống hài hòa với đất trời của người Mường.
Hiện nay, bên cạnh lịch âm, lịch dương thông dụng, tất cả hoạt động sản xuất, sinh hoạt hàng ngày, phong tục, nghi lễ, lễ hội của cộng đồng, những việc quan trọng của mỗi người đều dựa vào cách tính cát, hung của bộ lịch tre.
Không cần lịch giấy và điện thoại
Bộ lịch tre của người Mường tỉnh Hòa Bình gồm 12 thẻ, làm từ những thanh tre được róc, vót, đánh bóng cẩn thận. Trên thẻ tre có các khắc, vạch, chấm biểu thị ngày, tháng và các hiện tượng quy luật tự nhiên của trời đất trong năm. Trên mỗi thẻ tre có các bộ phận chính gồm gốc lịch, sống lịch, mặt lịch. Mỗi thẻ khắc 30 vạch tương đương với 30 ngày trong một tháng.
Theo cách tính lịch, các ngày từ 1-10 gọi là "ngày cây”, từ ngày 11-20 gọi là "ngày lồng”, từ ngày 21-30 gọi là "ngày cuối”. Trong đó, số ngày trong tháng ghi theo lối khắc gạch những ngày tốt, xấu, ngày mưa, ngày gió, ngày cá, ngày thú, ngày đại cát hay ngày xích khẩu… để đi làm ăn, làm nhà mới, dựng vợ, gả chồng hay công to việc lớn trong mường. Đặc biệt, do lịch tre lệch khoảng 15 ngày so với lịch âm nên người Mường ăn Tết Đoi riêng, thường sau Tết Nguyên đán nửa tháng.
Vạch thường được dùng để biểu thị ngày, mỗi vạch tương ứng với một ngày trong tháng. Chấm được dùng để biểu thị các sự kiện đặc biệt hoặc các ngày quan trọng trong tháng. Khắc dùng để biểu thị các tháng trong năm hoặc các mùa trong năm. Để đọc lịch tre, người Mường thường kết hợp các ký hiệu này lại với nhau. Một vạch đơn có thể là một ngày bình thường. Một vạch có kèm theo một chấm có thể là một ngày đặc biệt. Một nhóm các vạch và chấm có thể tạo thành một tuần hoặc một tháng...
Ý nghĩa của các ký hiệu trên lịch tre có thể khác nhau tùy theo từng vùng và từng dòng họ. Tuy nhiên, nhìn chung, các ký hiệu này đều phản ánh những quan sát của người Mường về thiên nhiên và đời sống như: các ký hiệu về thời tiết có thể giúp người Mường dự đoán mùa màng và thời tiết; các ký hiệu về hoạt động sản xuất có thể giúp người Mường sắp xếp công việc; các ký hiệu về những ngày lễ hội có thể giúp người Mường chuẩn bị cho các dịp đặc biệt. Ngoài ra, còn có các ký hiệu:
Tháng: Mỗi tháng trong lịch tre có thể được biểu thị bằng một ký hiệu riêng. Ví như, tháng Giêng có thể được biểu thị bằng một hình ảnh cây lúa non, tháng Hai có thể được biểu thị bằng một hình ảnh chim cu gáy, và cứ thế tiếp tục cho đến tháng Mười hai; Ngày: Mỗi ngày trong tháng có thể được biểu thị bằng một vạch. Các ngày quan trọng có thể được đánh dấu bằng một chấm hoặc một ký hiệu đặc biệt.
Mùa: Các mùa trong năm cũng có thể được biểu thị bằng các ký hiệu riêng. Ví như, mùa xuân có thể được biểu thị bằng hình ảnh cây cối đâm chồi nảy lộc, mùa hè có thể được biểu thị bằng hình ảnh mặt trời, mùa thu có thể được biểu thị bằng hình ảnh lá rụng, và mùa đông có thể được biểu thị bằng hình ảnh bông tuyết.
Số lượng và mật độ của các ngày này thay đổi theo từng tháng. Ví như, tháng nào thấy có nhiều vạch hình mũi tên thì tháng đó có rất nhiều mưa bão. Nếu gieo mạ, cấy lúa... vào những ngày mưa bão thì sẽ bị hư hỏng hết. Nếu vào ngày cá thì người dân đi đánh cá, mò cua bắt ốc sẽ được nhiều. Số ngày trong tháng ghi theo lối khắc gạch những ngày tốt, xấu, ngày mưa, ngày gió, ngày cá, ngày thú, ngày đại cát hay ngày xích khẩu… để làm nhà mới, cưới vợ, gả chồng hay công to việc lớn trong gia đình, trong cộng đồng.
Lịch tre phản ánh những quan sát của người Mường về thiên nhiên, đời sống.
Người Mường không cần lịch giấy, không cần điện thoại, chỉ cần nhìn trăng và nhìn lên các thẻ tre được khắc các ký tự này là biết phải làm gì.
Việc giải thích ý nghĩa của các ký hiệu trên lịch tre có thể gặp nhiều khó khăn do sự khác biệt về văn hóa và ngôn ngữ giữa các vùng. Tuy nhiên, việc tìm hiểu về các ký hiệu này sẽ giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về lịch sử và văn hóa của người Mường.
“Bộ lịch chính là sự tổng hợp, đúc kết qua nhiều đời của người Mường xưa, biểu hiện rực rỡ của tư duy người dân tộc Mường trong nhận thức thế giới, qua quan sát sự vận động của mặt trăng. Đặc biệt là đặc tính chu kỳ trăng, sự vận chuyển của sao để phân định thời gian, ngày, giờ, tuần, tháng, năm”, Nghệ nhân Nhân dân Bùi Văn Minh ở xã Văn Sơn, huyện Lạc Sơn, Hòa Bình (cũ), cho hay.
Bí ẩn khắc trên cuốn “lịch trời”
Theo nghệ nhân mo Mường Bùi Văn Minh thì xưa kia mỗi dòng họ hay một làng có một người được giao giữ lịch để xem ngày cho cả bản làng. Người được chọn thường là thầy mo, thầy mỡi hoặc thầy tlượng. Xem lịch tre phải biết ngẩng đầu nhìn sao Đoi, cúi đầu đọc vạch tre, rồi kết hợp cả kinh nghiệm, sự hiểu biết uyên thâm về tri thức địa lý, thiên văn...
Những điều này, không có sách nào dạy. Tất cả đều được học, truyền miệng từ người đi trước cho người đi sau, rồi tự mình cảm. Đối với lịch Đoi của người Mường, người ngoài nhìn vào chỉ thấy mấy cái vạch vô nghĩa, nhưng với thầy mo, thầy mỡi, thầy tlượng thì đó là cả một hệ tri thức cổ truyền.
Ngày nay, lịch tre đang dần trở thành ký ức. Phần lớn người trẻ ở các vùng Mường không mấy ai còn biết khái niệm lịch Đoi là gì. Sự thay đổi của thời tiết, biến đổi khí hậu và thay đổi chu kỳ thiên văn khiến các dự đoán không còn chính xác như xưa nên càng khiến người ta xa rời bộ lịch cổ này. Nhưng với những người như ông Minh và những thầy mo trong cộng đồng Mường thì với họ vẫn luôn tâm niệm “giữ được lịch Đoi là giữ được cái hồn xứ Mường".
Trong không gian bảo tàng của mình, nghệ nhân Bùi Thanh Bình, Giám đốc Bảo tàng Di sản văn hóa Mường vẫn thường bảo: Lịch tre không chết vì thời gian trong đó vẫn sống. Chỉ cần còn một người hiểu thì lịch Mường chưa mất. Những nét khắc như dấu “mật mã” kia vẫn âm thầm vận hành bằng nhịp đập của ký ức, trăng trời và lòng người. Dù không còn được mấy ai dùng, nhưng lịch tre vẫn nhắc ta nhớ về một thời gian không chỉ để đo mà là để sống...
Trước nguy cơ thất truyền, cấp ủy, chính quyền địa phương đã nỗ lực phục hồi và bảo tồn. Năm 2022, tri thức dân gian về lịch tre (lịch Đoi) đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Sau khi được công nhận, một số bộ lịch quý đã được đưa vào trưng bày tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
Đặc biệt, tại Bảo tàng Di sản văn hóa Mường còn lưu giữ được 5 bộ lịch tre cổ có tuổi đời lên tới cả trăm năm. Tại đây, không chỉ trưng bày, còn tổ chức các buổi giới thiệu, tái hiện nghi lễ xem lịch, mời các thầy mo còn giữ nghề đến chia sẻ với du khách. Nhờ đó, những thẻ tre từ trong im lặng đã “cất tiếng, kể chuyện”.
Đông Nguyễn - M. Hùng