Trong kết luận tại buổi làm việc với đại diện Đảng ủy Chính phủ và các ban, bộ, ngành Trung ương về đánh giá kết quả thực hiện các nghị quyết của Trung ương về công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân và định hướng công tác thời gian tới, Tổng Bí thư Tô Lâm kết luận thống nhất thực hiện chủ trương khám sức khỏe định kỳ cho nhân dân ít nhất mỗi năm một lần.
Tổng Bí thư giao Đảng ủy Chính phủ chỉ đạo nghiên cứu xây dựng đề án với lộ trình từng bước giảm gánh nặng chi phí y tế cho người dân, tiến tới miễn viện phí toàn dân vào giai đoạn từ 2030-2035; rà soát lại các chương trình, kế hoạch, đề án liên quan đến chăm sóc sức khỏe nhân dân để bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với tình hình mới.
PLO đã có cuộc trao đổi với bà Trần Thị Trang, Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm y tế (Bộ Y tế), để làm rõ về những nội dung cốt lõi của chủ trương này.
Bà Trần Thị Trang - Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm y tế (Bộ Y tế). Ảnh: TT
Miễn viện phí gắn với BHYT toàn dân
. Phóng viên: Miễn viện phí có phải là người dân đi khám chữa bệnh và không phải trả tiền? Chủ trương miễn viện phí nên được hiểu đúng như thế nào, thưa bà?
+ Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm y tế Trần Thị Trang: Chủ trương miễn viện phí toàn dân là chính sách vô cùng nhân văn. Đây cũng là một mục tiêu cần hướng tới, thể hiện chính sách an sinh xã hội của nhà nước.
Thời gian vừa qua, Tổng Bí thư, Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ và Chính phủ đã có chỉ đạo rất quyết liệt về vấn đề này.
Trước hết, cần hiểu rõ rằng miễn viện phí không có nghĩa là người dân đến bệnh viện, khám bệnh chữa bệnh theo nhu cầu và hoàn toàn không phải trả tiền.
Miễn viện phí phải dựa vào chính sách trụ cột, đó là bảo hiểm y tế (BHYT). Trong phạm vi chi phí khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ở mức cơ bản thì BHYT sẽ bao phủ để chi trả đủ.
Mục tiêu của miễn viện phí là làm sao để người bệnh giảm được gánh nặng.
. Bà có thể giải thích cụ thể hơn về miễn viện phí dựa vào BHYT?
+ Ngân sách nhà nước sẽ hỗ trợ một phần để mở rộng bao phủ BHYT, hỗ trợ mức đóng BHYT cho các nhóm người cao tuổi, trẻ em, người nghèo, người khuyết tật, người cận nghèo, có mức thu nhập trung bình… để những nhóm người này có thể tham gia BHYT một cách bền vững.
BHYT cũng hướng đến tăng tối đa phạm vi quyền lợi, phạm vi chi trả cho người bệnh. Đơn cử, hiện nay đối với một số thuốc, dịch vụ kỹ thuật, vật tư y tế có chi phí cao thì đang có tỉ lệ chi trả khoảng 30%, 50% hoặc 70%, thì BHYT sẽ phấn đấu mở rộng mức chi trả này lên, đặc biệt với một số bệnh nặng, bệnh hiểm nghèo, bệnh có chi phí điều trị cao.
Bên cạnh đó, mỗi năm 1 lần người dân được khám sức khỏe định kỳ theo yêu cầu chuyên môn; trong phạm vi chi trả của BHYT và ngân sách hỗ trợ thêm có thể được sàng lọc các yếu tố nguy cơ bệnh tật sớm ngay tại y tế cơ sở, để từ đó người bệnh được tiếp cận dịch vụ y tế sớm, được chữa trị ở giai đoạn sớm, giảm gánh chi phí khi mắc bệnh ở giai đoạn nặng.
Cũng trong phạm vi của BHYT và khả năng hỗ trợ của ngân sách nhà nước, sẽ hướng đến chi trả những chi phí khám và điều trị bệnh ở mức căn bản. Phần chi phí còn lại theo yêu cầu hoặc các kỹ thuật cao, chi phí lớn thì người bệnh chi trả kết hợp với các chính sách khác dành cho người bệnh nghèo (nguồn xã hội hóa, nhà tài trợ…).
Cần kết hợp giữa BHYT, chi trả của ngân sách nhà nước và chi trả của người dân, chứ không thể bao cấp toàn bộ cả những dịch vụ cơ bản, dịch vụ theo yêu cầu và cả những chi phí tăng thêm.
Trước mắt, cần phấn đấu làm sao để ít nhất là trẻ em sẽ được bảo đảm các dịch vụ y tế cơ bản. Về tăng mức chi trả đối với trẻ em, theo lộ trình là năm 2030 và năm 2035 sẽ chi trả 100% chi phí khám chữa bệnh ở cấp cơ bản, ban đầu và chuyên sâu khi đi khám chữa bệnh theo quy định, tức là đi đúng cơ sở khám chữa bệnh.
Song song với đó, sẽ hướng tới mục tiêu giảm dần tỉ lệ đồng chi trả của người bệnh. Hiện nay, chi phí đồng chi trả của người bệnh tại Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia tương đối cao.
Ở một số các quốc gia khác, chi phí đồng chi trả chỉ khoảng hơn 10%. Trong đó, Thái Lan 12%, Singapore 24,7%.
Mục tiêu của miễn viện phí là làm sao để người bệnh giảm được gánh nặng. Ảnh minh họa: TT
. Lộ trình triển khai các chính sách này như thế nào, thưa bà?
+ Để thực hiện được những vấn đề này cần có lộ trình, chứ không phải là ngay lập tức sẽ thực hiện được, bởi chủ trương này đòi hỏi những điều kiện rất lớn.
Về chính sách cụ thể, trước hết, mỗi người dân sẽ được khám sức khỏe định kỳ ít nhất một lần ở y tế cơ sở, cụ thể là trạm y tế xã.
Người dân sẽ được khám một số chỉ tiêu cơ bản để có thể kiểm tra sức khỏe, sàng lọc sớm một số bệnh và chi phí này nằm trong phạm vi chi trả của quỹ BHYT (tới đây sẽ có quy định). Trong trường hợp thiếu, ngân sách nhà nước sẽ cấp bổ sung để BHYT có thể bảo đảm chi đủ.
Đối với các nhóm đối tượng có nguy cơ thì có thể được khám thêm một số chỉ tiêu khác, hoặc tần suất khám định kỳ mỗi năm sẽ tăng lên, tùy theo điều kiện khả thi của ngân sách.
Chính sách khám sức khỏe định kỳ này có thể thực hiện ngay từ năm 2026. Bộ Y tế ước tính mức bình quân chung cho một lần khám là 300.000 đồng, với các chỉ tiêu khám cơ bản về mặt sinh hóa, công thức máu, chụp X-quang phổi, X-quang ngực, có thể có siêu âm…
Bộ Y tế sẽ rà soát để xây dựng cụ thể danh mục phạm vi khám sức khỏe định kỳ, chỉ tiêu khám để bảo đảm đạt yêu cầu chuyên môn, phù hợp theo đối tượng cần khám, bảo đảm khả năng cân đối của quỹ BHYT và ngân sách nhà nước.
Thứ hai, bảo đảm người dân được khám sàng lọc một số bệnh và quản lý sức khỏe, lập hồ sơ sức khỏe theo vòng đời, từ khi được sinh ra thậm chí là từ trong bào thai, cho đến khi về già.
Đây cũng là một chính sách rất nhân văn. Nếu chúng ta quan tâm đến vấn đề sàng lọc, chẩn đoán sớm bệnh tật thì sẽ tiết kiệm được chi phí, giảm gánh nặng bệnh tật. Do đó, tới đây sẽ mở rộng phạm vi chi trả của quỹ BHYT và ngân sách nhà nước cũng bổ sung để có thể chi trả cho sàng lọc và chẩn đoán sớm một số bệnh.
Một số bệnh có thể sàng lọc ở các cấp cơ bản, một số bệnh khác ở cấp chuyên sâu, tùy theo yêu cầu về mặt chuyên môn.
Thứ ba, từng bước Nhà nước cấp ngân sách để chi cho một số gói dịch vụ y tế cơ bản mang tính chất phòng bệnh.
Nhà nước căn cứ vào yêu cầu, khả năng thực tiễn để từng bước chi trả cho gói dịch vụ y tế cơ bản này.
Về lâu về dài, có thể từng bước, bên cạnh ngân sách cùng các nguồn xã hội hóa, quỹ BHYT sẽ mở rộng chi trả thêm cho một số dịch vụ phòng bệnh có tính đáp ứng các yêu cầu chuyên môn và có tính chi phí hiệu quả, tức là đầu tư của quỹ sẽ giảm được các chi phí khác.
Thứ tư, dần dần sẽ hướng đến tăng tỉ lệ thanh toán của BHYT.
Hiện nay, BHYT đang chi trả cho các nhóm đối tượng tỉ lệ là 100%, 95% và 80%.
Vậy thì đối với các nhóm đối tượng đang phải chi trả thêm 5% và 20%, chúng ta sẽ từng bước giảm tỉ lệ đồng chi trả này xuống, căn cứ vào khả năng cân đối của quỹ.
Thứ năm, BHYT sẽ mở rộng tối đa phạm vi thanh toán đối với các thuốc, dịch vụ kỹ thuật, thiết bị y tế theo lộ trình từ nay đến năm 2035, trước hết là đối với các nhóm người bệnh thuộc đối tượng ưu tiên.
Ví dụ, hiện nay trẻ từ 7 đến 16 tuổi đang được BHYT thanh toán theo tỉ lệ điều kiện. Vậy thì từng bước, nhóm này sẽ được mở rộng phạm vi thanh toán.
Cuối cùng, sẽ mở rộng phạm vi bao phủ vaccine, tăng số lượng vaccine được tiêm chủng miễn phí cho người dân trong chương trình tiêm chủng quốc gia, để dự phòng một số bệnh lý.
Toàn bộ các chính sách này đều hướng đến miễn toàn bộ các chi phí y tế cơ bản và giảm tỉ lệ chi tiền túi về mức thấp nhất. Đây chính là cách tiếp cận đối với miễn viện phí.
Nhiều nguồn lực cần được đảm bảo
. Việc miễn viện phí sẽ tác động như thế nào đến hệ thống tài chính y tế hiện nay?
- Đây là một cuộc cải cách rất lớn. Chi phí cho các chính sách này không hề nhỏ.
Riêng việc khám sức khỏe định kỳ miễn phí ít nhất 1 lần mỗi năm cho toàn dân, với chi phí trung bình khoảng 300.000 đồng/lần/người, sẽ cần thêm khoảng 25.000 tỉ đồng mỗi năm cho khoảng 84 triệu dân (khoảng 16 triệu người còn lại là người lao động, được người sử dụng lao động chi trả chi phí khám sức khỏe định kỳ theo quy định).
Ngoài ra, các chương trình sàng lọc, phát hiện sớm một số bệnh, gói dịch vụ y tế cơ bản do trạm y tế thực hiện cũng cần bổ sung kinh phí.
Cũng cần kinh phí để tăng mức hỗ trợ đóng BHYT theo lộ trình đối với học sinh, sinh viên, người cao tuổi, người khuyết tật, người thuộc hộ cận nghèo và đối tượng chính sách để tăng bao phủ BHYT; từng bước mở rộng phạm vi quyền lợi BHYT theo đối tượng ưu tiên.
. Để thực hiện các chính sách này, cần đảm bảo những nguồn lực gì, thưa bà?
Về nguồn lực, quỹ BHYT vẫn là trụ cột; cùng với đó, ngân sách nhà nước cấp vào quỹ BHYT và bảo đảm các dịch vụ phòng bệnh để người dân được hưởng thụ các phạm vi chi trả ở mức tối đa.
Ngoài ra, để có thể tăng chi cho BHYT, tăng chi cho phạm vi quyền lợi cho người dân, có thể có cơ chế như một số nước khác đã áp dụng và các chuyên gia đã khuyến cáo, đó là trích từ nguồn thuế tiêu thụ đặc biệt đối với thuốc lá, rượu, bia, đồ uống có đường… để bù đắp và chi lại cho khám chữa bệnh.
Bên cạnh đó, cần phải căn cứ, nhìn nhận vào thực tiễn để thấy rằng mệnh giá thẻ BHYT tại Việt Nam vẫn còn thấp.
Hiện nay, mức đóng BHYT là 4,5% mức lương cơ sở, trong khi luật cho phép có thể là 6%. Chúng ta phải tính tới việc từng bước nâng mệnh giá thẻ BHYT, tức là tăng mức đóng BHYT.
Mệnh giá thẻ tăng để bảo đảm mở rộng được tối đa quyền lợi, phạm vi chi trả cho người bệnh.
Việc tăng mức đóng BHYT cũng phải tiến hành theo lộ trình, căn cứ vào điều kiện khả năng thực tiễn, ngân sách nhà nước và khả năng cân đối của quỹ.
Người dân tham gia khám sức khỏe miễn phí nhằm giúp phát hiện sớm các vấn đề về thị lực tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Thọ. Ảnh: TT
Tiếp đó, cần bảo đảm năng lực của hệ thống y tế, cần nâng cao chất lượng dịch vụ, đặc biệt là đối với y tế cơ sở và y tế dự phòng, nhằm bảo đảm người dân sẽ được hưởng thụ các dịch vụ thuận tiện nhất ngay tại nơi cư trú, lao động.
Để tăng cường năng lực cho y tế cơ sở, y tế dự phòng, thì y tế cơ sở, y tế dự phòng phải được nhà nước là bảo đảm ngân sách chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển.
Trạm y tế xã muốn khám sức khỏe định kỳ, muốn chăm sóc khám chữa bệnh đa khoa cơ bản thì ít nhất phải được đầu tư tương đương như một phòng khám đa khoa, phải được đầu tư, củng cố về con người và thiết bị. Ngân sách nhà nước phải bảo đảm các hoạt động này.
Trạm y tế xã phải có bác sĩ để thực hiện công việc xét nghiệm sinh hóa, chỉ định dịch vụ cận lâm sàng, sàng lọc sớm một số bệnh cơ bản, chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân ở mức đa khoa.
Như vậy, tối thiểu phải có 3-5 bác sĩ đa khoa tại mỗi trạm y tế xã. Đồng thời, phải có mạng lưới bác sĩ gia đình để tham gia ngay tại cơ sở.
Để có nguồn nhân lực này, cần áp dụng các cơ chế đặc biệt, đột phá về mức hỗ trợ và lương hàng tháng, đồng thời cân nhắc việc bảo đảm về nhà ở, có nhà công vụ hoặc được hỗ trợ thuê nhà…
Cạnh đó, cần có chính sách định kỳ đưa các bác sĩ ở tuyến trên về xã để thực hiện nghĩa vụ luân phiên về trạm y tế xã.
Thủ tướng đã chỉ đạo Bộ Y tế khẩn trương triển khai chương trình đưa 1.000 bác sĩ về cơ sở; tập trung hoàn thiện tờ trình, báo cáo và dự thảo Nghị quyết của Bộ Chính trị về bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, công tác dân số và phát triển.
Chúng ta cũng cần tăng cường tự chủ về thuốc, vaccine, thiết bị y tế… bằng cách phát triển dược và thiết bị y tế thành những ngành công nghiệp mũi nhọn. Việt Nam cần được chuyển giao công nghệ và có thể sản xuất một số thuốc mới, để người dân được tiếp cận dễ dàng và giảm chi phí y tế.
Đồng thời, cần đầu tư một số trung tâm y tế chuyên sâu để người bệnh không phải ra nước ngoài điều trị; cùng với đó, thu hút người nước ngoài đến khám chữa bệnh tại Việt Nam để tăng nguồn thu và giới thiệu những kỹ thuật cao của y tế Việt Nam.
Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ đầu tháng 6-2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính yêu cầu Bộ Y tế khẩn trương triển khai chương trình đưa 1.000 bác sĩ về cơ sở.
Trước đó, tháng 3-2025, Thủ tướng đã chỉ đạo ngành y tế đưa thêm 1.000 bác sĩ về cơ sở ngay trong năm nay - 2025, nhằm đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe người dân.
THANH THANH