Dự thảo Luật Viên chức (sửa đổi) đang được Bộ Nội vụ lấy ý kiến đã tạo nên những cuộc trao đổi sôi nổi với đề xuất mở rộng quyền của viên chức khi cho phép được góp vốn, thành lập và quản lý doanh nghiệp hợp pháp.
Đây là bước đi mang tính đột phá, phù hợp với tinh thần Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, trong đó khẳng định: “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia”. Sự thay đổi này vừa thể hiện tính nhân văn khi tôn trọng quyền tự do lao động, kinh doanh của mỗi công dân, vừa là giải pháp khơi thông nguồn lực, gắn kết khu vực công – tư để thúc đẩy phát triển bền vững.
Theo chuyên gia, việc trao quyền cho viên chức tham gia kinh tế tư nhân sẽ giải phóng một nguồn lực nhân sự có trình độ và kinh nghiệm, đóng góp vào việc nâng cao chất lượng và năng lực cạnh tranh của khu vực tư nhân. Ảnh: BẢO PHƯƠNG
Kiểm soát chặt chẽ để không xung đột lợi ích
Luật Viên chức năm 2010 (sửa đổi, bổ sung 2019) từng đặt viên chức trong khuôn khổ quản lý công vụ, hạn chế quyền tham gia các hoạt động kinh tế tư nhân nhằm phòng ngừa xung đột lợi ích. Tuy nhiên, trong bối cảnh đổi mới sáng tạo, kinh tế số và hội nhập toàn cầu, cách tiếp cận này đã bộc lộ nhiều hạn chế.
Thực tiễn cho thấy, nhiều viên chức có trình độ cao, nắm giữ những sáng chế, giải pháp kỹ thuật nhưng chưa có cơ hội thương mại hóa. Dự thảo sửa đổi lần này mạnh dạn cho phép viên chức được góp vốn, thành lập và điều hành doanh nghiệp, miễn là hoạt động không vi phạm pháp luật và không ảnh hưởng đến nhiệm vụ công vụ.
Việc trao quyền cho viên chức tham gia kinh tế tư nhân sẽ giải phóng một nguồn lực nhân sự có trình độ và kinh nghiệm, đồng thời tạo thêm lực lượng doanh nhân được trang bị kiến thức quản lý nhà nước, hiểu rõ chính sách, từ đó đóng góp trực tiếp vào việc nâng cao chất lượng và năng lực cạnh tranh của khu vực tư nhân.
Điều này cũng phù hợp với định hướng trong Nghị quyết 68, khi đặt mục tiêu đến năm 2030, kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 55-58% GDP, khoảng 35-40% tổng thu ngân sách nhà nước, giải quyết việc làm cho khoảng 84-85% tổng số lao động và đến năm 2045 phát triển bền vững, có nhiều doanh nghiệp tư nhân quy mô lớn, sức cạnh tranh cao, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
Tất nhiên, mở rộng quyền đi kèm với yêu cầu kiểm soát chặt chẽ xung đột lợi ích. Báo chí từng phản ánh thực tế “vừa làm viên chức, vừa làm giám đốc” nếu thiếu cơ chế giám sát, điều này có thể dẫn đến lợi dụng vị trí công tác để ưu ái cho doanh nghiệp của mình.
Vì vậy, cần quy định rõ các lĩnh vực viên chức không được kinh doanh; bắt buộc kê khai, công khai tài sản và thông tin doanh nghiệp mà viên chức góp vốn hoặc điều hành, đồng thời thiết lập cơ chế giám sát độc lập và xử lý nghiêm vi phạm. Chỉ khi đảm bảo được nguyên tắc minh bạch và liêm chính công vụ, chính sách mới đạt mục tiêu kép là vừa khuyến khích sáng tạo, vừa bảo vệ lợi ích chung.
Nâng cao hiệu quả công việc, giữ chân nhân tài
Bên cạnh đó, dự thảo cũng mở rộng quyền hưởng thu nhập từ “nguồn thu hợp pháp khác” ngoài tiền lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập, cho phép đơn vị xây dựng quy chế chi trả thu nhập tăng thêm theo mức độ tự chủ tài chính". Đây là động lực quan trọng để nâng cao hiệu quả công việc, giữ chân nhân tài và giảm tình trạng chảy máu chất xám từ khu vực công sang tư nhân.
Khi viên chức có thêm cơ hội tạo thu nhập hợp pháp từ đầu tư, kinh doanh, họ sẽ chủ động hơn về tài chính, giảm áp lực tìm kiếm công việc ngoài luồng không minh bạch, đồng thời vẫn cống hiến cho nhiệm vụ công. Điểm tích cực nữa là chính sách này không làm suy yếu vai trò của khu vực công, mà ngược lại còn giúp kết nối và chia sẻ nguồn lực.
Viên chức có thể mang kinh nghiệm quản lý, kiến thức chuyên môn vào hoạt động doanh nghiệp; đồng thời, trải nghiệm thực tiễn thị trường sẽ giúp họ hiểu rõ hơn nhu cầu xã hội, từ đó cải thiện chất lượng dịch vụ công. Đây chính là mô hình giao thoa giữa “nhân lực công” và “tư nhân sáng tạo” – hai khu vực bổ trợ cho nhau, cùng hướng tới mục tiêu phát triển chung.
Đề xuất viên chức được góp vốn, thành lập và quản lý doanh nghiệp nếu được Quốc hội thông qua sẽ là hành lang pháp lý quan trọng để huy động trí tuệ và nguồn lực của đội ngũ này cho sự nghiệp đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp và phát triển kinh tế đất nước. Ảnh: BẢO PHƯƠNG
Về tác động dài hạn, nếu được triển khai đồng bộ và kiểm soát tốt, chính sách này sẽ góp phần đáng kể vào mục tiêu 2 triệu doanh nghiệp vào năm 2030 theo Nghị quyết 68. Lực lượng viên chức với hơn 1,6 triệu người hiện nay, chỉ cần một tỉ lệ nhỏ chuyển hóa ý tưởng, sáng chế, mô hình quản lý thành doanh nghiệp thực sự cũng sẽ tạo ra một “làn sóng khởi nghiệp” mới, gia tăng nhanh số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ, đóng góp vào các chuỗi cung ứng nội địa và quốc tế.
Sự tham gia của viên chức trong vai trò nhà đầu tư hoặc nhà sáng lập sẽ mang lại tính chuyên nghiệp, kỷ luật và khả năng kết nối chính sách cho doanh nghiệp, tạo lợi thế cạnh tranh trong giai đoạn hội nhập sâu rộng. Đây là nguồn lực mà nếu biết khai thác hợp lý, sẽ trở thành “chất xúc tác” để Việt Nam không chỉ đạt mà còn vượt mục tiêu 2 triệu doanh nghiệp, hướng tới nền kinh tế năng động, sáng tạo và bền vững.
Dự thảo Luật Viên chức (sửa đổi) với nội dung cho phép viên chức được góp vốn, thành lập và quản lý doanh nghiệp là một bước tiến thể chế kịp thời, phù hợp xu thế và sát với yêu cầu phát triển kinh tế tư nhân theo Nghị quyết 68.
Theo dự kiến, dự thảo luật sẽ được trình Quốc hội xem xét tại Kỳ họp 10 vào tháng 10 tới đây. Nếu được Quốc hội thông qua, đây sẽ là hành lang pháp lý quan trọng để huy động trí tuệ và nguồn lực của đội ngũ viên chức cho sự nghiệp đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp và phát triển kinh tế đất nước.
Song song với việc trao quyền, điều cần làm ngay là phải thiết kế một cơ chế giám sát hiệu quả, bảo đảm viên chức vừa hoàn thành tốt nhiệm vụ công vụ, vừa đóng góp tích cực cho sự phát triển của kinh tế tư nhân và quan trọng hơn là tất cả vì lợi ích chung của quốc gia.
Thiết kế khung pháp lý minh bạch
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy nhiều quốc gia đã có cơ chế cho phép công chức, viên chức tham gia hoạt động kinh tế tư nhân với những giới hạn rõ ràng.
Như tại Nhật Bản, công chức có thể giữ cổ phần hoặc tham gia quản lý doanh nghiệp ngoài giờ hành chính nếu được cơ quan quản lý cho phép và bảo đảm không trùng lặp lợi ích với lĩnh vực phụ trách.
Ở Singapore, chính phủ khuyến khích “chính phủ khởi nghiệp” bằng cách tạo điều kiện cho viên chức tham gia các dự án kinh doanh xã hội hoặc khởi nghiệp đổi mới sáng tạo nhưng áp dụng quy trình giám sát nghiêm ngặt, công khai toàn bộ khoản đầu tư.
Tại Pháp, luật cho phép viên chức tham gia điều hành doanh nghiệp trong lĩnh vực không xung đột lợi ích và yêu cầu tạm dừng nhiệm vụ công nếu muốn toàn thời gian điều hành. Những kinh nghiệm này cho thấy vấn đề không nằm ở việc cấm tuyệt đối hay cho phép tuyệt đối, mà là ở thiết kế khung pháp lý minh bạch, phân định rạch ròi giữa trách nhiệm công vụ và hoạt động kinh doanh.
Ths NGUYỄN TUẤN ANH