Vùng đất của những làng cổ

Vùng đất của những làng cổ
11 giờ trướcBài gốc
Vùng đất Nam Giang nhìn từ trên cao.
Nằm ở “cửa ngõ” phía Đông Nam huyện Thọ Xuân, Nam Giang là một vùng đất đai trù mật với nhiều lợi thế “cận thị, cận giang”. Trước đây, khi chưa có nhiều tuyến đường được mở, Nam Giang là “đầu mối” giao thông giữa vùng đồng bằng phía Đông với miền đồi núi phía Tây. Sự thuận lợi giao thông, giao thương và phát triển kinh tế, đất Nam Giang khi xưa còn được chọn làm nơi đặt Văn chỉ, Võ chỉ của huyện Lôi Dương trong lịch sử.
Nơi đây được hình thành và phát triển trên cơ sở của các làng cổ xưa. “Những tư liệu lịch sử còn để lại khẳng định các làng Phúc Thượng, Phúc Hạ, Phúc Như, Phú Gia, Cao Phong thuộc tổng Nam Cai; Kim Bảng thuộc tổng Thượng Cốc; Phong Lạc thuộc tổng Bất Náo (Bất Nạo) là những làng cổ được lập từ cuối thời Trần đến thời Lê”.
Trong đó, làng Phúc Trạch Thượng (Phúc Thượng) có lịch sử lập dựng cách ngày nay gần 700 năm. Lưu truyền dân gian kể rằng, thời bấy giờ, sau khi theo nhà vua đi đánh giặc ở đất phương Nam trở về, có bốn người họ Đinh, Trần, Hoàng, Lưu khi qua đất Cổ Lôi (Thọ Xuân ngày nay) thấy vùng đất này dù còn hoang rậm song đất đai tốt tươi, nước chảy xuôi dòng, thuận lợi cho canh tác nông nghiệp. Vì thế, họ đã rủ nhau dừng chân khai hoang, lập nên các làng, trong đó có làng Phúc Trạch Thượng. Từ xa xưa, người dân làng Phúc Trạch Thượng đã tôn thần Cao Sơn Đại vương làm Thành hoàng làng.
Nếu như Phúc Trạch Thượng được lập dựng vào thời Trần - Lê thì làng Phong Lạc được lập dựng sớm hơn. Thời Lý, làng thuộc địa phận của huyện Di Phong, Cư Phong; thời Trần thuộc huyện Cổ Lôi; thời Lê thuộc huyện Lôi Dương; thời Nguyễn thuộc tổng Bất Náo phủ Thiệu Thiên... Qua các thời kỳ lịch sử, Phong Lạc được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau, như: Bài Khu Trai, Bài Tang Trại (làng Đềnh), Phong Lạc...
Về đất làng Phong Lạc, theo sách Lịch sử xã Nam Giang: “Do địa thế và thiên nhiên ưu đãi, các bậc tiền nhân của làng đã chọn hướng Nam, lấy Na Sơn (núi Nưa) làm tiền án, sông Lương (sông Chu ngày nay) làm hậu chẩm, chọn sông nhà Lê làm nguồn tụ thủy lập làng. “Đất lành chim đậu”, quá trình lập làng giữ nước, cư dân các nơi về quần tụ đem theo sắc thái văn hóa riêng”, cùng hòa quyện tạo nên nét đẹp văn hóa của đất và người Phong Lạc.
Khi xưa, trên đất làng Phong Lạc có sự hiện hữu của nhiều công trình kiến trúc văn hóa gắn liền với đời sống tín ngưỡng của người dân, như chùa thờ Phật; miếu thờ Thánh... Người dân Phong Lạc tôn vị tướng nhà Lê là Lê Đức Đạt làm Thành hoàng, thờ ở đình làng.
Lịch sử vùng đất và truyền thống văn hóa đã tạo nên một làng Phong Lạc có nhiều nét riêng. “Ngày nay đến Phong Lạc... dễ nhìn thấy sắc thái văn hóa riêng. Người Phong Lạc lịch lãm, chịu thương chịu khó, cần cù, giản dị, mộc mạc, chân thành... và... yêu nước, thương nòi, sống có nghĩa tình, sẵn sàng giúp đỡ những người sa cơ lỡ vận, nhưng cũng đầy quyết đoán trong công việc mưu sinh” (sách Lịch sử xã Nam Giang).
Văn bia công đức Trường lưu tại Di tích lịch sử văn hóa Điện Càn Long, xã Nam Giang.
Với làng Cao Phong, những cư dân đầu tiên có công lập làng từ ngoài phía Bắc vào. Đầu thế kỷ XV, khi nhà Minh sang xâm lược nước ta, tiêu diệt nhà Hồ, đặt ách cai trị. Bấy giờ ở đất Lam Sơn, Bình Định vương Lê Lợi đã phất cờ tụ nghĩa, thu hút hào kiệt bốn phương tìm về. Bên cạnh những hào kiệt quyết chí “mài gươm cứu nước” còn có những người họ Phạm Hữu, Phạm Duy từ đất Sơn Nam cũng theo vào để lập nghiệp - lập nên làng Cao Phong. “Gia phả các dòng họ để lại cho biết, những người dân Sơn Nam đầu tiên đến đây thấy cảnh quan tươi đẹp, thế đất kỳ vĩ tươi tốt có thể làm nơi an cư lạc nghiệp đời đời do thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Nơi đây không xa mấy là đất chiến khu Lam Sơn, thuận lợi cho việc đi về. Từ Sơn Nam có thể đi theo đường thiên lý Bắc - Nam hoặc qua lối Nho Quan (Ninh Bình) vài ngày đường là có thể đến nơi ở mới. Nhờ đất tốt, khí hậu ôn hòa nên người từ các nơi tiếp tục kéo về đây lập nghiệp”.
Thời hậu Lê, có hai anh em họ Phạm ở đất làng Cao Phong cùng thi đỗ và làm quan. Người anh từng giữ chức Tham chính xứ Nghệ, còn người em làm quan ở Bộ Hình. Vì có công với dân làng, nên sau khi mất hai anh em họ Phạm được người dân Cao Phong lập đền thờ phụng, tôn làm Thành hoàng làng.
Cao Phong mang “sắc vóc” của làng quê thuần Việt - thanh bình, yên ả. Theo lời kể của các bậc cao niên trong làng, trước đây ở Cao Phong có giếng nước, sân đình, đền thờ Thành hoàng làng và các vị tiên hiền đã có công lập làng. Đáng tiếc, trải qua thời gian, nhiều công trình kiến trúc trên đất làng Cao Phong giờ chỉ còn được nhắc nhớ trong chuyện kể của người có tuổi.
Kể tên những làng cổ trên đất Nam Giang, không thể không nhắc đến làng Kim Bảng. Theo truyền ngôn dân gian, vào thời nhà Trần, có hai ông họ Lý quê miền ngoài, đều là những tướng giỏi đánh trận. Tuy nhiên, vì bị thất sủng nên đành phải vào xứ Thanh lánh nạn. Các ông đi mãi, đến khi kiệt sức thì dừng nghỉ dưới gốc cây Trôi to với những quả chín mọng. Đến khi tỉnh dậy, thấy nơi dừng nghỉ là vùng đất đẹp, chim chóc hoan ca, cây cối tươi tốt, lại vắng người nên hai ông đã quyết định ở lại dựng lán trại, lập nghiệp.
“Đất lành chim đậu”, vùng đất hoang chẳng mấy chốc nhờ bàn tay, khối óc, sự chịu thương, chịu khó của con người đã dần trở nên trù phú, thu hút người muôn phương tìm về mỗi ngày thêm đông. Và người ta đặt tên cho nơi đây là Trại Quả, về sau có tên là Quả Nhuệ. Dân cư ngày càng đông, vùng đất Quả Nhuệ được chia tách thành Quả Nhuệ Thượng và Quả Nhuệ Hạ. Ngày nay, Quả Nhuệ Thượng có tên gọi làng Kim Bảng. Với truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, khi hai ông họ Lý qua đời, người dân Quả Nhuệ đã lập đền thờ, tôn hai ông làm Thành hoàng làng.
Đặc biệt, trên đất làng Kim Bảng, xã Nam Giang, 3,5 thế kỷ về trước đã có sự hiện hữu của khu Điện Càn Long bề thế - là nơi thờ cúng vua Lê Thần Tông, Lê Huyền Tông và Hoàng Thái hậu Phạm Thị Ngọc Hậu thời Lê Trung hưng.
Theo sử liệu, làng Kim Bảng là quê hương của Hoàng Thái hậu Phạm Thị Ngọc Hậu - mẹ của vua Lê Huyền Tông. Bà Hoàng Thái hậu là người trực tiếp sắp xếp và điều hành việc xây dựng một Điện Càn Long bề thế, quy mô trên chính quê hương mình. Miếu điện Càn Long trên đất Kim Bảng được xây dựng theo kiến trúc thời Lê Trung hưng. Theo văn bia Công đức Trường lưu: “...Khi lăng và điện đã hoàn tất, năm tháng thờ phụng thật là linh thiêng. Đối với các vị tiên tổ bên họ ngoại cũng đều quy về miếu để phối thờ. Việc thờ phụng như vậy Hoàng Thái hậu đã lo xa chu toàn”.
Trải qua thời gian và những biến động lịch sử, những công trình kiến trúc của Điện Càn Long chỉ còn lại dấu tích ít ỏi, trong đó văn bia Công đức Trường lưu với nội dung ghi chép về việc xây dựng miếu điện và thờ cúng giúp hậu thế mường tượng và hiểu hơn giá trị của một di tích bề thế trong lịch sử.
Ông Lê Văn Nam, Chủ tịch UBND xã Nam Giang, cho biết: “Nam Giang là miền quê có bề dày lịch sử văn hóa, truyền thống yêu nước và đấu tranh cách mạng. Dù trong thời chiến hay thời bình, đất và người Nam Giang luôn nỗ lực vươn lên học tập, lao động để có cuộc sống ấm no, từng bước xây dựng quê hương giàu đẹp. Diện mạo của quê hương Nam Giang hôm nay được tạo dựng, vun đắp từ chính sự nỗ lực của lớp lớp những thế hệ người dân” n
(Bài viết có tham khảo, sử dụng nội dung trong sách Lịch sử xã Nam Giang).
Bài và ảnh: Khánh Lộc
Nguồn Thanh Hóa : https://vhds.baothanhhoa.vn/vung-dat-nbsp-cua-nhung-lang-co-37572.htm