W.A. Hosenfeld - nguyên mẫu sĩ quan SS của 'The Pianist'

W.A. Hosenfeld - nguyên mẫu sĩ quan SS của 'The Pianist'
6 giờ trướcBài gốc
Trong cuộc Khởi nghĩa Warsaw, Hosenfeld thường xuyên thẩm vấn những thường dân Ba Lan bị bắt làm tù binh, những thành viên cách mạng Ba Lan và cả binh lính Hồng quân trước khi họ bị xử tử. Hosenfeld được ghi nhận hoặc chí ít là hỗ trợ việc giải cứu ít nhất 3 người Ba Lan gốc Do Thái bao gồm nhà soạn nhạc kiêm nghệ sĩ dương cầm nổi tiếng Wladyslaw Szpilman trong thời kỳ ĐQX tàn phá Warsaw, cũng như đã giúp đỡ cho một nhóm người Ba Lan dưới ách chiếm đóng của ĐQX.
Sự hỗ trợ của Hosenfeld dành cho ông Szpilman đã được khắc họa rõ nét trong bộ phim “Nghệ sĩ dương cầm” (The Pianist) công chiếu năm 2002. Những nỗ lực của Hosenfeld đã được ghi nhận bằng hàng loạt giải thưởng danh giá.
Sĩ quan tình báo và phản gián Đức, Wilhelm Adalbert Hosenfeld, trong bức ảnh chụp ở Warsaw, tháng 4/1942.
Trong Thế chiến II
Hosenfeld sinh trong một gia đình có cha là hiệu trưởng của một trường Công giáo La Mã sống gần Fulda (bang Hesse, Đức). Chịu ảnh hưởng của phong trào Hành động Công giáo và những công tác xã hội lấy cảm hứng từ giáo hội. Trong Thế chiến I, Hosenfeld đã chiến đấu với tư cách là lính bộ binh của quân đội đế quốc Đức tại Flanders, Baltic và Romania giai đoạn 1914-1917. Năm 1917, Hosenfeld bị thương nặng và được trao tặng Huân chương Chữ thập sắt hạng nhì.
Hosenfeld coi Hòa ước Versailles là một sự sỉ nhục quốc thể. Sau khi từ mặt trận trở về, Hosenfeld đã cưới một người phụ nữ tên là Annemarie Krummacher, người vợ được cho là tác động tư tưởng hòa bình cho chồng. Trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến, Hosenfeld đã làm thầy giáo tại các trường Công giáo; mang tư tưởng “hiện đại”, người thầy trẻ phản đối mạnh mẽ việc đánh đòn học sinh.
Vào thập niên 1920, Hosenfeld hoạt động tích cực trong chi bộ Wandervogel (các nhóm thanh niên đi bộ đường dài để phản đối công nghiệp hóa) của Phong trào thanh niên Đức cũng như tham gia vào những môn thể thao có tổ chức, cả 2 việc này đã dẫn đến việc gia nhập SA - nhánh bán quân sự thuở ban đầu của Đảng Quốc xã. Hosenfeld gia nhập đảng công nhân Đức quốc gia xã hội chủ nghĩa (NSDAP) năm 1935, đồng thời tham gia những cuộc mít tinh Nuremberg trong các năm 1936, 1938.
Năm 1938, Hosenfeld bày tỏ sự lo lắng về những cuộc tấn công của ĐQX nhắm vào tôn giáo. Năm 1939, được tuyển dụng làm hiệu trưởng ở Thalau. Trong toàn bộ thời gian tham gia Thế chiến II, Hosenfeld chủ yếu được điều động sang Ba Lan. Ngày 26/89/1939, Hosenfeld được huy động làm trung sĩ dự bị nhưng đơn vị của Hosenfeld đã không rời khỏi Fulda khi cuộc xâm lược Ba Lan bắt đầu vào ngày 1/9 năm đó.
Cuối tháng 9/1030, khi Ba Lan gần như đã bị đánh bại, Hosenfeld đến Fabianice cùng một đại đội dưới quyền và được bổ nhiệm làm chỉ huy của trại tù chiến tranh được thành lập trong nhà máy dệt cũ Rudolf Kindler, và một điểm khác đặt tại trường số 5 gần đó ở địa chỉ số 65 đường Zamkowa, cả hai nơi này cùng dùng làm trại trung chuyển cho những người bị bắt trong trận Bzura (trận đánh lớn nhất trong cuộc xâm lược Ba Lan của Đức, diễn ra từ ngày 9 đến ngày 19/9/1939.
Đây là một cuộc phản công của Ba Lan chống lại quân Đức diễn ra ở phía Tây Warsaw, gần sông Bzura. Ban đầu, nó đạt được một số thành công nhưng sau đó đã chùn bước khi quân Đức cuối cùng đánh bại quân Ba Lan bằng một cuộc phản công tập trung, làm suy yếu đáng kể lực lượng Ba Lan và dẫn đến việc tiêu diệt các tập đoàn quân Poznan và Pomorze. Trận Bzura được mô tả là “trận chiến đẫm máu và cay đắng nhất trong toàn bộ chiến dịch Ba Lan”. Winston Churchill gọi trận đánh này là một “cuộc chiến đấu vẻ vang”.
Hosenfeld giám sát việc xây dựng hàng rào dây kẽm gai, các vọng gác và những vị trí đặt súng máy để canh trại. Trong lúc đồn trú ở Pabianice, Hosenfeld tự nhận mình có cảm giác “động nộ” trước sự đối xử thô bạo với các tù nhân gốc Do Thái, cùng “sự thích thú” với những người quan sát Ba Lan. Hosenfeld xem sự phẫn nộ của người Đức bản địa chống lại người Ba Lan là chính đáng bởi hành vi dã man của người Ba Lan - những người bị kích động chống người Đức dẫn đến chiến tranh bùng nổ.
Hosenfeld cho phép thân nhân đến thăm phạm nhân và điều này đã chống lại luật lệ của trại. Hosenfeld đã can thiệp để thả một số người Ba Lan khỏi bị người Đức giam giữ, kết bạn với gia đình các tù nhân, và sau đó đưa vợ mình đến sống với những người liên lạc Ba Lan. Từ tháng 12/1939, Hosenfeld đóng quân ở Wegrow và ở đó cho đến khi tiểu đoàn của Hosenfeld chuyển thêm 30 km đến Jadow vào cuối tháng 5/1940.
Detlev Hosenfeld, con trai ông W.A.Hosenfeld, bên tấm bảng có đề tên cha mình.
Cứu sống nhiều người Do Thái
Tháng 7/1940, cuối cùng Hosenfeld chuyển đến Warsaw và trải qua phần lớn thời gian còn lại của cuộc chiến, được điều động đến Tiểu đoàn cận vệ 660 (một phần của Trung đoàn cận vệ Warsaw và phục vụ ở đây với tư cách là sĩ quan tham mưu cũng như sĩ quan thể thao của tiểu đoàn. Trong tư cách của một sĩ quan tình báo, Hosenfeld thường xuyên báo cáo cho Bộ phận tham mưu IC (Trinh sát và phòng thủ địch, của Tình báo quân đội Đức) của Bộ chỉ huy tối cao quân lực Đức.
Cuối tháng 8 và đầu tháng 9/1940, Hosenfeld đóng vai trò sĩ quan liên lạc cho đoàn làm phim Wien-Film do Bộ khai sáng và tuyên truyền công cộng của đế chế Đức ủy nhiệm, giúp đoàn này chọn những địa điểm quay trên khắp chính quyền trung ương nhằm thực hiện bộ phim tuyên truyền chống Ba Lan có tiêu đề “Về nhà” (năm 1941).
Cần nên biết đôi chút về chính quyền trung ương. Đây là một đơn vị lãnh thổ ở Ba Lan có chính quyền riêng. Khi Đức xâm lược Ba Lan, ĐQX đã thành lập chính quyền này vào ngày 26/10/1939. Người Đức chia Ba Lan làm 3 phần: phía Tây bị sát nhập vào Đệ tam đế chế; phía Đông bị Liên Xô chiếm đóng; chính giữa được thành lập thành Chính quyền trung ương - một đơn vị độc lập mà ĐQX dự định dùng nó để thực hiện mưu đồ bẩn thỉu của mình. Trở lại chuyện của Hosenfeld.
Ông điều hành trường thể thao Wehrmacht ở Warsaw và phụ trách các sự kiện thể thao quân sự ở sân vận động quân đội Ba Lan được đổi tên thành sân vận động Wehrmacht. Trong thời gian trục xuất và giết hại hàng loạt người Do Thái từ Khu “ổ chuột” Warsaw ngay mùa Hè 1942, Hosenfeld đã tổ chức một cuộc thi thể thao dài 1 tuần với sự tham gia của 1.200 vận động viên quân đội, sau đó đưa vợ đi nghỉ một tuần ở Berlin.
Khi trở về nhà, Hosenfeld đã giấu 2 người Do Thái còn sống sót - một trong số họ là Leon Warm-Warczynski - người đã trốn khỏi một tàu vận chuyển người Do Thái đến trại thanh trừng Treblinka - trong khuôn viên trường thể thao. Trong thời kỳ công tác ở Warsaw, Hosenfeld đã dùng chức vụ của mình để bảo vệ những người chạy trốn khỏi Gestapo, gồm cả một người gốc Đức chống ĐQX, bằng cách cung cấp giấy tờ và bố trí việc làm cho họ tại trường thể thao. Năm 1942, Hosenfeld được thăng hàm đại úy dự bị.
Vào thời kỳ này, trong nhật ký của mình, Hosenfeld bắt đầu vẽ ra sự tương đương về mặt đạo đức giữa chủ nghĩa quốc xã và chủ nghĩa cộng sản, nhưng bày tỏ niềm kiêu hãnh khi là công dân của một nước Đức kiên cường và cho rằng tư tưởng Quốc xã là một thứ ít tệ hại hơn nếu so với việc bại trận. Cuối năm 1943, Hosenfeld nuôi hy vọng về một cuộc đảo chính trong Đệ tam đế chế tương tự với việc Nguyên soái Pietro Badoglio tiếp quản nước Ý dẫn đến một nền hòa bình riêng biệt giữa Đức và Đồng Minh phương Tây.
Trong thời gian diễn ra Khởi nghĩa Warsaw (tháng 8 và 9/1944), Hosenfeld đã tiến hành các nhiệm vụ phản gián bằng cách thẩm vấn thường dân, các chiến sĩ kháng chiến Ba Lan và binh lính Hồng Quân - những người mà quân đội Đức bắt làm tù binh vào tuần thứ 2 của cuộc chiến. Trong những lá thư gửi cho gia đình mình, Hosenfeld nói rằng không tài nào moi được tin giá trị từ một nhóm nữ sinh trung học (những người mà Hosenfeld ghi nhận là có lòng sùng đạo) và tuyên bố rằng mình phải cố gắng cứu mạng các nữ sinh.
Hosenfeld cũng so sánh có hệ thống về sự tàn phá ở Warsaw với việc quân Đồng Minh đánh bom các thành phố Đức. Hosenfeld mô tả lực lượng khởi nghĩa là “bọn cướp” sử dụng những thường dân “lầm đường lạc lối” làm lá chắn sống và khẳng định rằng Wehrmacht đã hành động một cách chính trực ở Warsaw. Chỉ sau khi quân khởi nghĩa ra hàng, Hosenfeld mới bày tỏ lòng khâm phục tinh thần dân tộc của người dân Ba Lan.
Vào tháng 10/1944 khi kế hoạch san phẳng Warsaw bắt đầu như là một phần dự án phòng thủ ĐQX, Hosenfeld được giao nhiệm vụ dẫn báo chí ĐQX và trung lập đi tham quan tàn tích. Vào giữa tháng 11/1944, Hosenfeld khám phá ra Wladyslaw Szpilman đang ẩn náu tại một căn gác mái bỏ hoang tại địa chỉ Aleja Niepodleglosci 223 cũng là nơi Hosenfeld được giao nhiệm vụ dùng tòa nhà làm trụ sở cho một nhóm tham mưu quân đội. Sau khi thử khả năng chơi đàn dương cầm của Szpilman, Hosenfeld bèn quyết định giúp nghệ sĩ. Hosenfeld cho phép Szpilman ở ngay trong tòa nhà mà không bị phát hiện. Hosenfeld trao quần áo và bánh mì cho Szpilman suốt vài tuần cho đến khi nắm quyền chỉ huy một đại đội trong Tập đoàn quân số 9.
Bị giam cầm và tử vong
Ngày 17/1/1945, Hosenfeld bị Hồng quân Liên Xô bắt giữ lúc Hosenfeld đang chỉ huy đại đội của mình sau một cuộc giao tranh ngắn tại một địa điểm gần Blonie cách Warsaw độ 30 km về hướng Bắc, một ngày sau khi rút lui khỏi thủ đô Ba Lan bị phá hủy. Tháng 5/1945, Hosenfeld được chuyển đến một trại sĩ quan ở Minsk, nơi Hosenfeld bị giam giữ biệt lập trong 6 tháng và bị người của Bộ Dân ủy nội vụ Liên Xô (NKVD) thẩm vấn 3 lần vì nghi ngờ hoạt động tình báo chống lại Liên Xô.
Cuối năm 1945 khi trở về trại tập trung chính, sức khỏe của Hosenfeld được cải thiện và có thể viết thư cho gia đình. Trong một lá thư đề năm 1946 gửi cho người vợ ở Tây Đức, Hosenfeld gọi tên những người Do Thái được Hosenfeld cứu sống và đề nghị vợ liên lạc với giới chức Liên Xô để hỏi họ thả. Vợ ông đã nhờ Karl Horle (một người Cộng sản Đức từng là cựu tù nhân của trại tập trung ĐQX) là người đứng đầu chi hội địa phương của Hội tù chính trị và những người bị bức hại bởi hệ thống ĐQX đã nhúng tay vào vụ của Hosenfeld nhằm thay mặt cho Cộng hòa dân chủ Đức trong tháng 7/1947.
Trong thời gian chờ được phóng thích, Hosenfeld bị đột quỵ nặng và mặc dù ông được hồi sức kịp thời nhưng sau đó ông lại gặp phải những biến chứng của căn bệnh này. Giữa năm 1950, trong quá trình tố tụng hành chính, tòa án của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xôviết Byelorusslan đã kết án Hosenfeld 25 năm tù trong trại khổ sai vì sự tham gia của Hosenfeld trong một đơn vị phạm tội ác chiến tranh. Tháng 8/1950, Hosenfeld được chuyển đến Stalingrad nhằm tái thiết thành phố này và xây dựng kênh đào Volga-Don.
Tháng 11/1950, Leon Warm-Warczynski đã thăm Hosenfeld - người đã thông báo cho Szpilman về danh tính và số phận của người đã giúp đỡ mình. Szpilman liền tức tốc tìm cách thả Hosenfeld thông qua việc nhờ cậy Jakub Berman vốn là một thành viên của Ủy ban Quân sự trong Bộ Chính trị của Đảng công nhân Ba Lan. Nhưng vì Hosenfeld từng làm gián điệp nên vụ này lại ngoài tầm với của Cộng sản Ba Lan. Tháng 6/1952, sức khỏe của Hosenfeld suy yếu đến nỗi phải đọc bưu thiếp cho gia đình. Hosenfeld qua đời vì vỡ động mạch chủ trong tháng 8/1952.
Năm 2004, Văn phòng nghiên cứu lịch sử quân sự của quân đội Đức đã công bố các bức thư và nhật ký của Hosenfeld. Lúc xem xét những tập sách này cho tạp chí của Viện tưởng niệm quốc gia, nhà thần học Công giáo, Winfried Lipscher, đã mô tả Hosenfeld là một hình mẫu Công giáo rất xứng đáng, và gợi ý rằng có thể trở thành “anh hùng của các dân tộc Ba Lan, Do Thái, và Đức”.
Tháng 10/2007, Hosenfeld được Tổng thống Ba Lan khi đó là ông Lech Kaczynski trao tặng Huân chương Thập tự chỉ huy. Ngày 19/6/2009, tại Berlin, các nhà ngoại giao Israel đã trao tặng giải thưởng cho ông Detlev, con trai của Hosenfeld. Ngày 4/12/2011, một tấm bảng kỷ niệm bằng tiếng Ba Lan và tiếng Anh được dựng lên tại địa chỉ số 223 đại lộ Niepodleglosci ở Warsaw (là nơi khi trước Hosenfeld đã tìm thấy nghệ sĩ Szpilman) trước sự chứng kiến của bà Jorinde, con gái của Hosenfeld.
Phan Bình (Tổng hợp)
Nguồn ANTG : https://antg.cand.com.vn/ho-so-mat/w-a-hosenfeld-nguyen-mau-si-quan-ss-cua-the-pianist-i788218/