Toàn cảnh phiên họp (Ảnh: Quang Vinh)
Đại biểu Đỗ Đức Hồng Hà (Đoàn Hà Nội) dẫn dự thảo Luật quy định: Chủ nền tảng thương mại điện tử trung gian có chức năng đặt hàng trực tuyến liên đới chịu trách nhiệm đối với hành vi vi phạm, trong trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các quy định, trực tiếp dẫn đến thiệt hại cho người mua.
Theo ông Hà, quy định này có tác động rất lớn, thay đổi căn bản bản chất pháp lý của sàn thương mại điện tử, chưa thống nhất với nguyên tắc miễn trừ trách nhiệm dành cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian được quy định trong Luật Giao dịch điện tử và thông lệ quốc tế, chưa thực sự phù hợp với nguyên tắc chung về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật Dân sự.
Ông Đỗ Đức Hồng Hà (Ảnh: Quang Vinh)
“Việc quy định sàn thương mại điện tử liên đới chịu trách nhiệm với người bán vi phạm, ngay cả khi sàn không trực tiếp có lỗi trong việc gây ra thiệt hại, sẽ đặt một gánh nặng pháp lý và tài chính khổng lồ lên các sàn thương mại điện tử”, ông Hà nhấn mạnh.
Từ đó, ông Hà đề nghị rà soát lại quy định này, cân nhắc thay đổi theo hướng quy định trách nhiệm của sàn thương mại điện tử một cách rõ ràng, cụ thể hơn, gắn liền với việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ như xác thực, kiểm duyệt, gỡ bỏ đã được quy định thay vì dùng khái niệm liên đới không phản ánh đúng bản chất của hoạt động trung gian.
Đối với quy định chủ quản nền tảng thương mại điện tử có trách nhiệm thực hiện biện pháp ngăn chặn, dừng phát trực tuyến theo thời gian thực, gỡ bỏ thông tin khi phát hiện nội dung livestream bán hàng vi phạm pháp luật hoặc có ngôn ngữ, hình ảnh trái đạo đức xã hội, thuần phong mỹ tục, đại biểu cho rằng, quy định này đặt ra yêu cầu rất cao nhưng chưa rõ ràng và có thể là bất khả thi cả về kỹ thuật lẫn pháp lý.
Theo ông Hà, quy định yêu cầu ngăn chặn theo thời gian thực đòi hỏi các nền tảng phải có hệ thống trí tuệ nhân tạo cực kỳ phức tạp và tốn kém để theo dõi, phân tích và hành động ngay lập tức đối với hàng trăm, hàng nghìn luồng livestream đồng thời. Với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, điều này là không thể.
Ông Hà cho rằng, thay vì yêu cầu ngăn chặn theo thời gian thực, một biện pháp tiền kiểm bất khả thi, nên tập trung vào cơ chế hậu kiểm nhanh. Ví dụ, yêu cầu nền tảng phải có cơ chế tiếp nhận phản ánh vi phạm rõ ràng và phải hành động gỡ bỏ, dừng phát trong một thời gian hợp lý, có thể trong 24 giờ kể từ khi nhận được phản ánh có cơ sở hoặc theo yêu cầu của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Đồng thời, cần rà soát loại bỏ khái niệm định tính khỏi điều kiện để áp dụng biện pháp kỹ thuật.
Đại biểu Nguyễn Thị Lan (Đoàn Hà Nội) góp ý cho Điều 39 về Chính sách hỗ trợ đặc thù phát triển thương mại điện tử. Theo bà Lan, Điều 39 của Dự thảo Luật đã thể hiện rõ chủ trương hỗ trợ các nhóm yếu thế như hộ kinh doanh, hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ, phụ nữ khởi nghiệp và vùng sâu vùng xa tham gia thương mại điện tử. Đây là hướng đi đúng, góp phần thu hẹp khoảng cách số và thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương. Tuy nhiên, quy định hiện mới dừng ở định hướng chung, chưa nêu rõ cơ chế triển khai, tiêu chí đánh giá hiệu quả và thiếu chính sách cụ thể cho lĩnh vực nông nghiệp, thực phẩm sạch và sản phẩm địa phương — những lĩnh vực có tiềm năng lớn nhưng còn gặp nhiều rào cản về logistics, tiêu chuẩn và niềm tin người tiêu dùng.
Bà Nguyễn Thị Lan (Ảnh: Quang Vinh)
Bà Lan đề nghị, bổ sung chính sách hỗ trợ riêng cho thương mại điện tử trong nông nghiệp và sản phẩm vùng miền, tập trung vào đào tạo kỹ năng số cho hợp tác xã và hộ nông dân, hỗ trợ tem truy xuất nguồn gốc điện tử, logistics lạnh, bao bì bền vững, cũng như thiết lập bộ chỉ tiêu đánh giá hiệu quả (KPIs) để giám sát kết quả hỗ trợ.
“Kinh nghiệm quốc tế cho thấy nhiều nước đã thành công khi gắn chính sách hỗ trợ nông nghiệp với thương mại điện tử. Trung Quốc triển khai chương trình Taobao Villages giúp hàng triệu nông dân bán nông sản trực tuyến, được hỗ trợ về đào tạo, logistics và tiêu chuẩn sản phẩm; Thái Lan phát triển nền tảng ThaiFarmersMarket để nông dân bán hàng trực tiếp tới người tiêu dùng đô thị; Hàn Quốc có chương trình Smart Farm to Table, tích hợp truy xuất nguồn gốc và giao hàng nhanh từ nông trại. Điểm chung của các mô hình này là nhà nước giữ vai trò hạ tầng và kết nối, còn doanh nghiệp đảm nhận vận hành và tiêu thụ, nhờ đó bảo đảm hiệu quả, tránh hình thức”, bà Lan nói.
Từ các bài học trên, theo bà Lan, Việt Nam nên áp dụng cơ chế “nhà nước tạo nền – doanh nghiệp dẫn dắt – người dân tham gia”, trong đó nhà nước hỗ trợ kỹ thuật, dữ liệu và kết nối hạ tầng, còn doanh nghiệp thương mại điện tử và logistics trực tiếp triển khai, giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp Việt Nam, mở rộng thị trường và thúc đẩy phát triển nông thôn số.
Về bảo vệ người tiêu dùng và kiểm soát hàng giả trong thương mại điện tử, bà Lan nhìn nhận dự thảo Luật hiện mới quy định chung về trách nhiệm của chủ sở hữu nền tảng (Điều 15) và bảo vệ người tiêu dùng (Điều 19), chưa cụ thể về xác thực danh tính người bán, trách nhiệm liên đới của nền tảng, cũng như cơ chế khiếu nại, hoàn tiền tự động. Trong khi đó, tình trạng bán hàng giả, gian lận và vi phạm quyền lợi người tiêu dùng trên sàn thương mại điện tử ngày càng gia tăng, gây mất niềm tin và ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững.
Dẫn chứng Liên minh châu Âu (Digital Services Act 2024), Singapore và Trung Quốc, nơi nền tảng phải xác minh người bán (KYBC) và chịu trách nhiệm liên đới khi xảy ra vi phạm, bà Lan cho hay, việc bổ sung sẽ nâng cao tính minh bạch, bảo vệ người tiêu dùng, củng cố niềm tin và uy tín của thương mại điện tử Việt Nam trong nước và quốc tế.
Việt Thắng - Trung Hiếu