Xây dựng hệ thống công nghiệp dầu khí hoàn chỉnh, đồng bộ

Xây dựng hệ thống công nghiệp dầu khí hoàn chỉnh, đồng bộ
5 giờ trướcBài gốc
Mỏ Bạch Hổ là mỏ dầu khí trên thềm lục địa Việt Nam, được chính thức đưa vào khai thác thương mại năm 1986 và được xếp vào trong số các mỏ có trữ lượng dầu khí lớn nhất Đông Nam Á. Việc khai thác thành công mỏ Bạch Hổ chính thức đưa Việt Nam vào danh sách các nước sản xuất dầu khí trên bản đồ thế giới. - Ảnh: Hải Anh/Petrotimes
Những năm qua, được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, ngành dầu khí đã từng bước chuyển mình, ghi dấu nhiều mốc son ấn tượng, hướng tới phát triển bền vững, đồng bộ, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.
Việt Nam đã xây dựng được hệ thống công nghiệp dầu khí hoàn chỉnh, đồng bộ, từ tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí đến phát triển công nghiệp khí - điện - chế biến và dịch vụ dầu khí. Năm 2024, ngành Dầu khí vượt ngưỡng 1 triệu tỷ đồng doanh thu; phát triển chuỗi dự án dầu khí và điện gió ngoài khơi cùng nhiều công trình năng lượng trọng điểm.
Từ nền tảng sơ khai đến khát vọng "làm chủ"
Bắt đầu từ nền tảng địa chất học sơ khai và những chuyến khảo sát đầu tiên ở Bắc Bộ, cuộc hành trình khai phá tiềm năng dầu khí đã được bắt đầu trong muôn vàn gian khó. Được sự quan tâm đặc biệt của Trung ương Đảng và Chính phủ, ngành dầu khí non trẻ đã được tiếp thêm sức mạnh, âm thầm chuẩn bị nguồn nhân lực, kỹ thuật trong thời chiến, để khi hòa bình lập lại có thể “đi tắt, đón đầu” xây dựng ngành một cách thần tốc.
Những năm 70-80 của thế kỷ XX ghi dấu bước chuyển chiến lược khi Việt Nam ký các hiệp định hợp tác dầu khí với Liên Xô, hình thành Liên doanh Vietsovpetro - mô hình khởi nguyên của hợp tác hiệu quả và chuyển giao công nghệ trong ngành dầu khí. Việc phát hiện và khai thác thành công mỏ Bạch Hổ không chỉ mang lại những dòng dầu thương mại đầu tiên, mà còn đặt nền móng cho hệ tư duy “vừa học, vừa làm, vừa sáng tạo” - đặc trưng của đội ngũ kỹ sư Việt Nam thời kỳ đầu.
Bác Hồ thăm mỏ dầu ở Baku - Azerbaijan, năm 1959 - Ảnh: Tư liệu
Bước sang thập niên 1990-2000, hành trình chuyển mình diễn ra mạnh mẽ khi Việt Nam mở rộng hợp tác với nhiều tập đoàn dầu khí quốc tế, từng bước xây dựng hệ thống pháp luật về dầu khí, thành lập Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, rồi phát triển thành Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, nay là Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam).
Chính trong giai đoạn này, tư duy “vừa học, vừa làm” đã dần phát triển lên thành khát vọng “làm chủ” - làm chủ giếng khoan, làm chủ thiết kế, làm chủ điều hành, làm chủ đàm phán. Những mốc son như khai thác các mỏ mới (Đại Hùng, Rạng Đông, Lan Tây - Lan Đỏ…), hình thành các đơn vị dịch vụ kỹ thuật chuyên sâu, đầu tư ra nước ngoài, đã xác lập bản sắc riêng của ngành dầu khí Việt Nam: tự tin, hội nhập và vững vàng trên thương trường quốc tế.
Từ đầu những năm 2010 đến nay, Petrovietnam đã hoàn thiện năng lực làm chủ toàn bộ chuỗi giá trị dầu khí - từ tìm kiếm, thăm dò, khai thác, vận chuyển, chế biến, tồn trữ, phân phối đến phát triển công nghiệp khí, điện khí, lọc - hóa dầu, năng lượng tái tạo. Việt Nam đã hình thành một hệ sinh thái doanh nghiệp đồng bộ, phát triển đội ngũ nhân lực kỹ thuật cao, làm chủ các dự án EPCI ngoài khơi, vươn tầm khu vực và từng bước khẳng định vị thế trên trường quốc tế.
Ngày 17/6/2025, Petrovietnam cùng Tổng CTCP Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí Việt Nam (PTSC) đã bàn giao cho khách hàng Đan Mạch toàn bộ 33 chân đế điện gió ngoài khơi thuộc dự án CHW2204. Mỗi chiếc chân đế cao khoảng 85m và nặng khoảng 2.300 tấn, được chế tạo 100% tại Việt Nam. Thành công của Dự án đã mở ra nhiều cơ hội mới cho PTSC trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, tiếp tục ký kết hợp đồng chế tạo chân đế cho các dự án có quy mô lớn hơn và bước đầu triển khai chế tạo các trạm biến áp ngoài khơi (OSS) thuộc dự án Baltica tại biển Baltic - một trong những dự án điện gió ngoài khơi lớn nhất thế giới. - Ảnh: Toàn cảnh bãi chế tạo chân đế điện gió của PTSC
Phát triển hạ tầng dầu khí hoàn chỉnh, đồng bộ
Các dự án đầu tư trong lĩnh vực chế biến dầu khí đang được tập trung triển khai để sớm hoàn thành đưa vào hoạt động, đảm bảo thực hiện mục tiêu chiến lược đề ra như: Nhà máy lọc dầu Dung Quất (công suất 6,5 triệu tấn/năm đã vận hành thương mại vào năm 2010); Liên hợp lọc hóa dầu Nghi Sơn (công suất 10 triệu tấn dầu thô/năm, đã hoàn thành đưa vào vận hành thương mại vào năm 2018); Dự án Nâng cấp mở rộng Nhà máy Lọc dầu Dung Quất (từ 6,5 triệu tấn lên 8,5 triệu tấn, dự kiến vận hành vào năm 2028).
Các nhà máy lọc hóa dầu được vận hành cơ bản an toàn, ổn định. Sản xuất lọc dầu 4 năm 2020-2024 đạt 66,83 triệu tấn (năm 2020 đạt 12,63 triệu tấn; năm 2021 đạt 13,21 triệu tấn; năm 2022 đạt 13,90 triệu tấn, năm 2023 đạt 12,7 triệu tấn, năm 2024 đạt 14,39 triệu tấn), trung bình 5 năm đạt 13,36 triệu tấn/năm đáp ứng khoảng 70% nhu cầu tiêu thụ xăng dầu trong nước phù hợp với mục tiêu chiến lược đề ra.
Trong giai đoạn năm 2020-2024, sản lượng khai thác dầu thô trong nước đạt 44,44 triệu tấn, một phần được cung cấp cho Nhà máy lọc dầu Dung Quất và một phần xuất khẩu (đối với dầu thô không phù hợp với công nghệ chế biến của Nhà máy lọc dầu Dung Quất) sang các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Thái Lan, Trung Quốc, Úc,...
Những năm gần đây, xuất khẩu dầu thô ngày càng giảm và nhập khẩu dầu thô (từ các nước như Mỹ, Nigeria, Kuwait, Azebaizan…) tăng nhanh nhằm đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho Nhà máy lọc dầu Dung Quất và Liên hợp Lọc hóa dầu Nghi Sơn.
Theo báo cáo của Bộ Công Thương, giai đoạn 2020-2024, sản lượng khai thác dầu giảm từ 11,47 triệu tấn năm 2020 xuống 9,87 triệu tấn năm 2024, sản lượng khai thác khí giảm từ 9,16 tỷ m3 năm 2020 xuống 6,32 tỷ m3 năm 2024, phù hợp với chủ trương chuyển dịch cơ cấu các ngành công nghiệp.
Bên cạnh đó, đã huy động được nhiều thành phần kinh tế tham gia sản xuất kinh doanh khí, huy động đa dạng nguồn vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng công nghiệp khí. Bên cạnh vận hành an toàn các hệ thống đường ống dẫn khí (hệ thống đường ống Rạng Đông - Bạch Hổ - Bà Rịa Vũng Tàu, hệ thống đường ống Nam Côn Sơn; đường ống dẫn khí PM3 - Cà Mau), hoàn thành đường ống Nam Côn Sơn 2 giai đoạn 2, các hệ thống thu gom khí và đường ống đấu nối liên kết mỏ thuộc Bể Cửu Long, bể Nam Côn Sơn (đường ống Sao Vàng - Đại Nguyệt, Đại Nguyệt - Thiên Ưng, Thiên Ưng - Đại Hùng), ngành dầu khí đã phát triển hệ thống nhập khẩu, sản xuất tiêu thụ các sản phẩm khí bao gồm: Nhà máy xử lý khí Dinh Cố, Nhà máy xử lý khí Cà Mau, hệ thống kho, cảng nhập LPG, LNG nhà máy sản xuất CNG, nhà máy sản xuất đạm, các hộ tiêu thụ khí thấp áp góp phần đảm bảo an ninh năng lượng và an ninh lương thực quốc gia.
Việc phát triển hạ tầng ngành công nghiệp khí từ khâu khai thác, vận chuyển và phân phối đã cung cấp ổn định nguồn khí cho phát triển công nghiệp gồm các nhà máy điện - khí , các nhà máy sản xuất phân đạm và các hộ tiêu thụ công nghiệp khác tại khu vực Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ, góp phần vào sự phát triển kinh tế chung của đất nước (khí được cung cấp để sản xuất ra lượng điện trên 34,5 tỷ kWh/năm chiếm 14% sản lượng điện toàn quốc; trên 1,5 triệu tấn/năm, chiếm 70-75% nhu cầu nội địa). Ngoài ra, các đơn vị cũng đã thực hiện tốt hoạt động tiếp nhận chuyển giao công nghệ của nước ngoài, đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật - kinh tế và quản lý khí...
Dự án cụm Khí - Điện - Đạm Càu Mau là công trình công nghiệp trọng điểm quốc gia theo mô hình khu công nghiệp phức hợp quy mô lớn nằm trên địa bàn xã Khánh An, tỉnh Cà Mau. Dự án có tổng mức đầu tư 2 tỷ USD, do Petrovietnam làm chủ đầu tư, gồm các công trình thành phần: Đường ống dẫn khí PM3-Cà Mau (dài 325 km, công suất 2 tỷ m3 khí/năm); Nhà máy Điện Cà Mau 1&2 vận hành thương mại năm 2017 - 2018 (gồm 2 nhà máy nhiệt điện chu trình hỗn hợp sử dụng tuabin khí thế hệ F; công suất mỗi nhà máy 750 MW khi đốt khí; 669,8 MW khi đốt dầu DO); Nhà máy Đạm Cà Mau vận hành thương mại năm 2012 (công suất thiết kế 800.000 tấn phân bón/năm, tương đương 2.350 tấn ure/ngày). - Ảnh: Hải Anh/Petrotimes
Ngoài ra, đến thời điểm hiện tại, Việt Nam đã bắt đầu nhập khẩu khí LNG phục vụ nhu cầu trong nước.
Nổi bật trong các cơ sở hạ tầng nhập khẩu LNG đã và đang được triển khai là Kho cảng LNG Thị Vải, có công suất 1 triệu tấn/năm.
Ngày 12/7/2023, PV GAS đã nhập chuyến hàng LNG đầu tiên với khối lượng 61.000 tấn LNG để phục vụ công tác chạy thử; ngày 29/10/2023, Kho cảng LNG Thị Vải đã chính thức đi vào hoạt động thương mại. Đến thời điểm hiện tai, Kho cảng LNG Thị Vải đã tiếp nhận 06 chuyến tàu LNG với tổng khối lượng trên 400.000 tấn để cung cấp cho các hộ tiêu thụ.
Hiện nay, PV GAS đang triển khai công tác đầu tư, xây dựng Dự án mở rộng, nâng công suất kho cảng LNG Thị Vải từ 1 triệu tấn/năm lên 3 triệu tấn/năm, dự kiến hoàn thành vào Quý IV/2028.
Ngoài ra, Kho LNG Hải Linh (công suất 3,2 triệu tấn/năm) đã cơ bản hoàn thành công tác đầu tư xây dựng và Chủ đầu tư đang tiến hành các công tác nhập khẩu LNG phục vụ công tác chạy thử trước khi nghiệm thu công trình đưa vào hoạt động thương mại..
Bên cạnh đó, một số dự án kho chứa LNG (bao gồm kho độc lập và kho gắn liền với nhà máy điện) đang trong quá trình chuẩn bị đầu tư, xây dựng như: kho LNG ITECO (Hải Phòng), kho cảng LNG Sơn Mỹ (Bình Thuận), kho LNG nhà máy điện LNG Quảng Ninh,...
-----------------------------------------------------------------
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Ban chấp hành Đảng bộ Bộ Công Thương, Báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng bộ Bộ Công Thương lần thứ I (nhiệm kỳ 2025-2030), ngày 15-16/7/2025.
2. Bộ Công Thương, Báo cáo Sơ kết 05 năm thực hiện Nghị quyết 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, ngày 15/4/2025.
3. Tập đoàn Công Nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam), Bài viết: Chào mừng Đại hội đại biểu Đảng bộ Petrovietnam lần thứ IV, nhiệm kỳ 2025-2030: Từ mong ước của Người đến tầm vóc Petrovietnam, ngày 23/7/2025.
Nguyễn Phong
Nguồn Tạp chí Công thương : https://tapchicongthuong.vn/xay-dung-he-thong-cong-nghiep-dau-khi-hoan-chinh--dong-bo-213118.htm