Dây chuyền sản xuất xi măng tại Công ty CP Xi măng Thăng Long, tỉnh Quảng Ninh. Ảnh: Danh Lam
Sản lượng tăng, doanh nghiệp khởi sắc
Theo Vụ Khoa học công nghệ môi trường và Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng) cho biết, ngành Xi măng tăng trưởng ấn tượng. Sản lượng sản xuất lũy kế 6 tháng đầu năm 2025 ước đạt 49,8 triệu tấn, tăng 18% so với cùng kỳ năm 2024 (42,2 triệu tấn).
Tổng sản lượng xi măng và clinker tiêu thụ đạt khoảng 54 triệu tấn, tăng 14% so với cùng kỳ. Trong đó, tiêu thụ nội địa đạt khoảng 37,5 triệu tấn, tăng 18%, phản ánh sự phục hồi mạnh mẽ của thị trường trong nước.
Xuất khẩu sản phẩm xi măng và clinker đạt khoảng 17 triệu tấn, tăng 6% so với cùng kỳ. Trong đó, xuất khẩu clinker tăng 19%, xuất khẩu xi măng giảm 2%. Kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đạt khoảng 635 triệu USD, tăng 1,7%. Các thị trường chính là Philippines, Mỹ, Singapore và Malaysia.
Tuy vậy, giá xuất khẩu xi măng và clinker vẫn ở mức thấp do cạnh tranh gay gắt, buộc doanh nghiệp phải giữ giá tương đương cuối năm 2024 để duy trì đơn hàng. Tồn kho xi măng và clinker hiện khoảng 4,5 triệu tấn, tương đương khoảng 20 ngày sản xuất.
Chi phí đầu vào cũng có những thay đổi quan trọng. Giá than – chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu chi phí đã hạ nhiệt đáng kể. Tháng 10/2024, giá than bình quân chỉ còn 105 USD/tấn, giảm 23% so cùng kỳ. Tháng 4/2025, mức giá nhập khẩu bình quân tiếp tục giảm xuống 98,6 USD/tấn, thấp hơn 22,6% so với cùng kỳ năm trước. Ngược lại, giá điện lại tăng 4,8% từ ngày 10/5/2025, nâng giá bán lẻ điện bình quân lên hơn 2.204 đồng/kWh. Với ngành tiêu thụ điện lớn như xi măng, đây là yếu tố khiến áp lực chi phí nửa cuối năm gia tăng.
Kết quả kinh doanh quý II/2025 của các doanh nghiệp trong ngành cho thấy nhiều điểm sáng. VICEM Hà Tiên báo lãi sau thuế 112,3 tỷ đồng – gấp 2,45 lần cùng kỳ và là mức cao nhất trong ba năm qua. VICEM Bỉm Sơn lãi gần 64,2 tỷ đồng, tăng khoảng 150% so với cùng kỳ. VICEM Bút Sơn ghi nhận lãi 12,4 tỷ đồng sau 10 quý liên tiếp thua lỗ. Đáng chú ý, VICEM Hoàng Mai đạt hơn 7 tỷ đồng lợi nhuận, gấp 27 lần cùng kỳ, nhờ thay thế một phần than bằng nhiên liệu như vỏ cây, dăm gỗ và chất thải rắn.
Tuy vậy, áp lực cạnh tranh trong ngành vẫn lớn. Toàn quốc hiện có khoảng 90 dây chuyền sản xuất, công suất thiết kế 106 triệu tấn/năm nhưng công suất thực tế có thể lên tới 122 triệu tấn/năm. Tình trạng dư cung kéo dài buộc một số nhà máy phải giảm tải hoặc ngừng hoạt động. Trên thị trường quốc tế, giá xuất khẩu clinker sang Bangladesh cuối 2024 chỉ ở mức 28,5–29 USD/tấn, thấp hơn đầu năm khoảng 2,5 USD/tấn – mức giá khó đảm bảo lợi nhuận nếu chi phí trong nước tăng.
2025 – Cơ hội và thách thức song hành
Giám đốc công ty CP Gemtec Nguyễn Văn Thắng cho rằng, với thị trường nội địa, hai yếu tố chính được kỳ vọng giữ vai trò động lực trong năm nay là đầu tư công và sự phục hồi dần của bất động sản. Các dự án hạ tầng giao thông, logistics và đô thị được đẩy mạnh sẽ tiêu thụ lượng lớn xi măng. Theo một số dự báo, quy mô thị trường xi măng Việt Nam có thể tăng 6 – 7% trong 2025, bất chấp tình trạng dư cung.
Ở mảng bất động sản, các chính sách tháo gỡ pháp lý và mặt bằng lãi suất hợp lý giúp mảng nhà ở và khu công nghiệp dần khởi sắc. Tuy nhiên, hiệu quả sẽ đến theo độ trễ, và tốc độ phục hồi sẽ khác nhau giữa các vùng. Thị trường miền Nam được đánh giá nhạy hơn với chu kỳ xây dựng dân dụng.
Xuất khẩu trong năm nay được nhìn nhận với sự thận trọng. Các tháng cuối năm sẽ phụ thuộc nhiều vào nhu cầu từ Nam Á, Đông Nam Á, diễn biến bảo hộ thương mại và chi phí vận tải. Xu hướng chung giai đoạn 2025 – 2030 được dự báo kém tích cực hơn do các tiêu chuẩn môi trường khắt khe hơn và cạnh tranh gay gắt về giá. Điều này buộc doanh nghiệp phải giảm dần phụ thuộc vào xuất khẩu clinker, tăng tỷ trọng xi măng có giá trị gia tăng cao.
Về chi phí, giá than được kỳ vọng tiếp tục ổn định ở vùng thấp, giúp hỗ trợ biên lợi nhuận. Ngược lại, giá điện tăng sẽ là yếu tố “gây khó” rõ rệt. Doanh nghiệp buộc phải đầu tư thiết bị hiệu suất cao, tận dụng thu hồi nhiệt và tối ưu thời gian vận hành để giảm thiểu tác động.
Một hướng đi chiến lược đang được nhiều đơn vị quan tâm là xanh hóa sản xuất. Việc tăng tỷ lệ sử dụng nhiên liệu thay thế như RDF, sinh khối, giảm hệ số clinker trong xi măng và đầu tư công nghệ khử CO2 vừa giúp giảm chi phí vừa đáp ứng yêu cầu môi trường của các thị trường xuất khẩu.
Chuyên gia về vật liệu xây dựng, thạc sĩ Phạm Ngọc Trung nhìn nhận, có ba kịch bản chính cho 2025. Ở kịch bản cơ sở, tiêu thụ nội địa tăng nhẹ, xuất khẩu đi ngang và lợi nhuận cải thiện ở mức vừa phải. Kịch bản tích cực xảy ra nếu bất động sản phục hồi nhanh, đầu tư công tăng tốc và giá vận tải ổn định, khi đó nhiều doanh nghiệp có thể vượt kế hoạch lợi nhuận. Ngược lại, kịch bản tiêu cực sẽ đến nếu bảo hộ thương mại tăng, giá điện tiếp tục điều chỉnh và cạnh tranh giá nội địa gay gắt, khiến các doanh nghiệp nhỏ dễ rơi vào khó khăn.
Với bối cảnh hiện tại, hai đòn bẩy mà ngành xi măng cần ưu tiên là tái cấu trúc sản phẩm và chuyển đổi năng lượng. Giảm tỷ trọng clinker, tăng sản phẩm xi măng có phụ gia khoáng và ứng dụng năng lượng thay thế sẽ vừa giúp tiết giảm chi phí, vừa tạo lợi thế cạnh tranh bền vững.
Chứng khoán FPT dự báo, trong giai đoạn 2024 - 2039, nhu cầu xi măng nội địa dự kiến tăng trưởng 2,38%/năm nhờ triển vọng xây dựng nhà ở tích cực. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu có thể kém khả quan hơn, với tốc độ tăng trưởng kép ước tính âm 1,7%/năm do tác động tiêu cực từ nhu cầu thấp của thị trường Trung Quốc và việc nhiều quốc gia áp thuế tự vệ lên sản phẩm ngành này.
Mặt khác, các doanh nghiệp xi măng hầu hết là doanh nghiệp có vốn Nhà nước. Vì vậy, nhà đầu tư có quyền kỳ vọng vào chính sách đẩy mạnh tháo gỡ khó khăn cho ngành xi măng để tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Nếu hồi sinh được thì cổ phiếu ngành xi măng sẽ rất hấp dẫn vì đang có định giá khá rẻ.
Thành Luân