Để về đích, doanh nghiệp và cơ quan chức năng cần đoàn kết tận dụng các hiệp định thương mại tự do, mở rộng thị trường, đẩy mạnh số hóa và xanh hóa, nâng cao khả năng chống chịu trước biến động toàn cầu.
May mặc là nhóm hàng xuất khẩu tăng cao trong 8 tháng đầu năm. Ảnh: LH
Tiềm ẩn nhiều thách thức
Theo số liệu từ Cục Thống kê, trong 8 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt 306 tỉ đô la Mỹ, tăng 14,8% so với cùng kỳ năm ngoái, mức cao nhất từ trước đến nay. Tuy nhiên, đà tăng trưởng này đối mặt với nhiều thách thức lớn, đặc biệt là những biến động về thuế quan, rào cản kỹ thuật và nhu cầu tiêu thụ từ các thị trường lớn có dấu hiệu chững lại. Điều này khiến việc duy trì nhịp độ tăng trưởng trong những tháng cuối năm trở nên không dễ dàng.
Các nhóm hàng chủ lực như máy móc, thiết bị, gỗ và sản phẩm gỗ, dệt may, thủy sản đều duy trì đà tăng trưởng ấn tượng với 2 con số.
Trong đó, nhóm hàng điện tử đóng góp lớn nhất vào thành tích xuất khẩu 8 tháng qua, với kim ngạch hơn 100 tỉ đô la, chiếm hơn 30% tổng xuất khẩu cả nước, tăng 25% so với cùng kỳ năm ngoái.
Theo bà Đỗ Thị Thúy Hương, Ủy viên Ban Chấp hành Hiệp hội Doanh nghiệp điện tử Việt Nam, mức tăng trưởng này là “cực kỳ đặc biệt”. “Trong thời gian ân hạn 90 ngày của thuế quan Mỹ, các doanh nghiệp điện tử Việt Nam đã tận dụng cơ hội này để đẩy mạnh đơn hàng”, bà Hương chia sẻ.
Tuy nhiên, từ ngày 7-8, khi thời gian ân hạn kết thúc, các doanh nghiệp điện tử của Việt Nam phải bắt đầu gánh chịu mức thuế nhập khẩu 20% từ Mỹ. Các đối tác tại thị trường này yêu cầu các doanh nghiệp Việt giảm giá bán khoảng 10% để chia sẻ gánh nặng chi phí, trong khi phía Mỹ cũng gánh phần còn lại. “Các đơn hàng vẫn đang trong quá trình thương thảo, nhưng phía đối tác đã khẳng định họ phải chia sẻ chi phí với toàn bộ chuỗi cung ứng,” bà Hương nói.
Tương tự, ông Trương Văn Cẩm, Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), cho biết chính sách thuế mới của Mỹ khiến nhiều doanh nghiệp và nhãn hàng phải tăng cường đẩy mạnh xuất khẩu trong vòng 4 tháng trước đó. Kết quả là, kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may sang Mỹ trong 7 tháng đầu năm đã tăng 15%, đạt 10,3 tỉ đô la.
Kể từ ngày 7-8, mức thuế 20% của Mỹ không quá bất lợi với Việt Nam, khi thấp hơn nhiều so với Trung Quốc và Ấn Độ, và tương đương Bangladesh, Campuchia, Pakistan. Nhờ đó, 8 tháng đầu năm, xuất khẩu dệt may đạt khoảng 30,8 tỉ đô la, tăng 7% so với cùng kỳ năm ngoái.
Tuy nhiên, theo ông, chi phí tăng cao toàn cầu có thể làm giá hàng dệt may tăng, giảm nhu cầu từ Mỹ. Việt Nam vẫn là phần trong chuỗi cung ứng toàn cầu, buộc nhà sản xuất, khách hàng, phân phối và người tiêu dùng chia sẻ chi phí để duy trì xuất khẩu ở mức giá chấp nhận được.
Thực tế, nhiều doanh nghiệp dệt may xuất khẩu vào Mỹ bắt đầu gặp khó khăn từ tháng 8 do khách hàng đặt hàng sớm để tránh thuế mới. Các doanh nghiệp như Việt Thắng Jean, dự báo xuất khẩu vào Mỹ năm nay giảm còn 15-20%, so với 35% năm ngoái.
Không riêng ngành dệt may, các doanh nghiệp lĩnh vực khác như gỗ, thực phẩm... cũng chịu ảnh hưởng từ thuế đối ứng 20% của Mỹ. Ông Vũ Bá Phú, Cục trưởng Cục Xúc tiến Thương mại, nhận định rằng đến hết 2025 hoặc nửa đầu 2026, các mặt hàng chủ lực của Việt Nam sẽ khó duy trì đà tăng trưởng cao như trước.
Các doanh nghiệp Mỹ đã tranh thủ mua hàng trước khi thuế mới có hiệu lực, gây tồn kho lớn. Ông Phú cảnh báo, trong thời gian tới, các mặt hàng như đồ gỗ, dệt may sẽ chững lại về tăng trưởng. Thêm vào đó, thuế 20% áp dụng từ ngày 1-8 sẽ tiếp tục gây áp lực chi phí xuất khẩu, buộc doanh nghiệp phải tối ưu hóa lợi ích và giảm thiểu rủi ro để thích nghi với tình hình mới.
Thách thức để về đích
Ông Tạ Hoàng Linh, Vụ trưởng Vụ Phát triển thị trường nước ngoài, cũng cho biết xuất khẩu đang đối mặt nhiều rào cản từ bên ngoài như nhu cầu tiêu dùng yếu, tiêu chuẩn nhập khẩu khắt khe hơn, cùng các yếu tố phi truyền thống như tiêu chuẩn lao động, môi trường và chuyển đổi xanh, ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng toàn cầu.
Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (tháng 6-2025), tăng trưởng toàn cầu dự kiến giảm còn 2,3%, do chính sách thuế của Mỹ và bất ổn kinh tế. WTO dự báo thương mại toàn cầu năm 2025 chỉ tăng 0,9%, thấp hơn nhiều so với năm 2024.
Nhiều thách thức để xuất khẩu về đích.
Việt Nam còn nhập siêu lớn từ Trung Quốc (75,9 tỉ đô) và Hàn Quốc (20,1 tỉ đô), phản ánh sự phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu. Do đó, phát triển công nghiệp hỗ trợ nội địa là cấp thiết để giảm thiểu rủi ro từ bên ngoài.
Biến động tỷ giá và chi phí logistics cũng làm giảm hiệu quả xuất khẩu. Tỷ giá USD tăng khiến nguyên vật liệu nhập khẩu đắt đỏ, trong khi phí vận tải biển chưa ổn định, nhất là tuyến đi châu Âu và Bắc Mỹ.
Trong Hội nghị giao ban xúc tiến thương mại gần đây, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cũng nhấn mạnh xuất khẩu tiềm ẩn nhiều rủi ro. Kinh tế toàn cầu vẫn còn bất ổn do căng thẳng địa chính trị, cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc, chính sách thương mại ngày càng khắt khe của Mỹ và nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng.
Với độ mở nền kinh tế cao nhất thế giới, Việt Nam dễ bị tác động hơn. Để hoàn thành mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu 12% năm nay, các tháng còn lại phải đạt ít nhất 150 tỉ đô, tương đương hơn 37,5 tỉ đô mỗi tháng - một thách thức lớn.
Để về đích xuất khẩu, các chuyên gia nhấn mạnh đa dạng hóa thị trường. Ông Ngô Sỹ Hoài, Phó Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, cho biết dù gỗ Việt đã có mặt tại 164 thị trường, 90% kim ngạch tập trung vào 5 thị trường lớn (Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Hàn Quốc, EU), còn gần 160 thị trường khác chỉ đóng góp dưới 10%. Chi phí logistics cao, sản phẩm cồng kềnh khiến mở rộng thị trường nhỏ gặp khó. Dự kiến, cuối năm, ngành có thể khai thác thêm 1-2 tỉ đô từ các thị trường này để bù đắp giảm xuất sang Mỹ.
Dài hạn, ông đề xuất đổi mới tiếp cận các thị trường truyền thống như Mỹ, chuyển từ phụ thuộc đơn hàng, mẫu mã sang xây dựng thương hiệu và marketing trực tuyến. Các cơ quan như Thương vụ Việt Nam tại Mexico đã hỗ trợ ký hợp đồng trị giá hàng triệu đô gỗ ván công nghiệp sang Mỹ, cần nhân rộng mô hình này.
Ông Cẩm (VITAS) khuyên doanh nghiệp đa dạng hóa thị trường, tập trung vào EU, Anh, Nga, CPTPP, ASEAN. Đồng thời, giảm phụ thuộc vào Trung Quốc bằng cách phát triển công nghiệp nguyên phụ liệu nội địa, đặc biệt là vải cho may xuất khẩu còn thiếu.
Ông Tạ Hoàng Linh cũng nhấn mạnh, hệ thống 17 FTA của Việt Nam với hơn 60 nền kinh tế là trợ lực giúp đa dạng hóa thị trường, giảm rủi ro phụ thuộc. Các FTA như CPTPP, EVFTA, RCEP mở ra không gian thị trường lớn, tạo lợi thế cạnh tranh, doanh nghiệp cần tận dụng tối đa để đưa xuất khẩu về đích.
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên yêu cầu các cơ quan phối hợp chặt chẽ, theo dõi sát thị trường, đề xuất điều chỉnh chính sách phù hợp, xây dựng quan hệ đối tác vững mạnh. Thúc đẩy hợp tác xúc tiến thương mại, kết nối doanh nghiệp trong nước với đối tác quốc tế để nâng cao năng lực, đa dạng hóa nguồn cung và thị trường, giảm phụ thuộc vào thị trường chủ đạo.
Ngoài ra, cần tăng cường khả năng chống chịu của doanh nghiệp, tham gia hệ sinh thái xúc tiến thương mại số, đa dạng chuỗi cung ứng, đầu tư công nghệ xanh, nâng cao truy xuất nguồn gốc. Các hiệp hội ngành hàng đóng vai trò hỗ trợ, cung cấp thông tin, định hướng thị trường, xây dựng thương hiệu.
Trong dài hạn, tiếp tục đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, giảm phụ thuộc vào thị trường truyền thống, nâng cao năng lực đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, phát triển công nghiệp hỗ trợ trong nước và hạ tầng logistics. Ứng dụng chuyển đổi số trong quản lý xuất nhập khẩu là giải pháp then chốt để nâng cao hiệu quả và minh bạch thương mại quốc tế.
Dù còn nhiều thách thức, nhưng với chính sách đúng đắn và nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp, Việt Nam có thể kỳ vọng năm 2025 thành công trong lĩnh vực thương mại quốc tế, nâng cao vị thế trên thị trường toàn cầu.
Lê Hoàng