Cách đây hơn 2 tuần trước, Israel đã tiến hành cuộc tấn công tên lửa đạn đạo đầu tiên nhằm vào một quốc gia vùng Vịnh – Qatar. Theo các nguồn tin truyền thông, ngày 9/9, khoảng 10 chiến đấu cơ Israel bay qua Biển Đỏ, tránh xâm nhập không phận nước khác, trước khi phóng loạt tên lửa “ngoài tầm nhìn”.
Tên lửa bay lên tầng thượng quyển, thậm chí ra ngoài vũ trụ rồi lao xuống mục tiêu ở thủ đô Doha, nơi các thành viên Hamas đang họp bàn về khả năng ngừng bắn tại Gaza. 6 người thiệt mạng, song tất cả đều không phải mục tiêu chính của Israel.
Binh sĩ Saudi Arabia tham gia cuộc diễn tập quân sự "Thanh gươm của Abdullah" tại khu vực Hafar al-Batin, gần biên giới với Kuwait, ngày 29/4/2014. Ảnh: Reuters
Nỗi thất vọng khi đặt cược vào ô an ninh Mỹ
Do đòn tấn công bất ngờ từ ngoài đường chân trời, Qatar hầu như không có khả năng phòng vệ. Vũ khí phòng thủ hữu hiệu nhất của Doha hiện không nằm ở các hệ thống tên lửa hiện đại, mà ở sự hiện diện quân sự của Mỹ – đồng minh lớn nhất của Israel. Mỹ đặt căn cứ quân sự lớn nhất khu vực tại Qatar và gần đây đã công nhận nước này là “đồng minh chủ chốt ngoài NATO”. Tuy nhiên, điều này vẫn không ngăn được Israel thực hiện cuộc tấn công lịch sử, và giới quan sát cho rằng Washington hẳn đã biết trước.
“Đòn tấn công của Israel làm lung lay giả định của các quốc gia vùng Vịnh về quan hệ với Mỹ và sẽ khiến họ xích lại gần nhau hơn”, bà Kristin Diwan, chuyên gia tại Viện nghiên cứu các quốc gia vùng Vịnh Arab ở Washington, nhận định.
Theo bà Sanam Vakil, Giám đốc chương trình Trung Đông và Bắc Phi tại Chatham House (Anh), “các quốc gia vùng Vịnh đang quyết liệt theo đuổi quyền tự chủ chiến lược lớn hơn và tìm cách giảm thiểu rủi ro từ sự phụ thuộc vào Mỹ”.
Trong bối cảnh đó, ý tưởng thành lập một “NATO Arab” – liên minh phòng thủ gồm các quốc gia Arab và Hồi giáo – được nhắc đến nhiều hơn.
Tuần trước, tại hội nghị khẩn của Liên đoàn Arab và Tổ chức Hợp tác Hồi giáo (OIC), các quan chức Ai Cập đề xuất xây dựng lực lượng phản ứng chung theo mô hình NATO. Thủ tướng Iraq Mohammed Shia al-Sudani cũng kêu gọi cách tiếp cận tập thể đối với an ninh khu vực.
Hội đồng Hợp tác Vùng Vịnh (GCC) gồm 6 thành viên – Bahrain, Kuwait, Oman, Qatar, Saudi Arabia và Các Tiểu vương quốc Arab Thống nhất – tuyên bố kích hoạt điều khoản phòng thủ chung trong thỏa thuận ký từ năm 2000: tấn công một nước thành viên đồng nghĩa tấn công cả khối. Các diễn đạt này gợi nhắc trực tiếp Điều 5 của Hiệp ước NATO.
Ngay sau đó, các Bộ trưởng Quốc phòng GCC họp tại Doha, nhất trí tăng cường chia sẻ tình báo, lập hệ thống cảnh báo sớm tên lửa đạn đạo và tổ chức tập trận chung. Cùng thời điểm, Saudi Arabia công bố ký thỏa thuận “phòng thủ chiến lược” với Pakistan, trong đó nhấn mạnh “mọi hành động gây hấn nhằm vào một bên sẽ được coi là hành động gây hấn với cả hai”.
Mô hình NATO hay phương án 6+2?
Dù vậy, nhiều chuyên gia hoài nghi về khả năng hình thành một “NATO Arab” thực thụ. “Một liên minh kiểu NATO là không thực tế vì sẽ buộc các nước vùng Vịnh tham gia vào những cuộc chiến không gắn với lợi ích cốt lõi của họ. Không nhà lãnh đạo vùng Vịnh nào muốn bị kéo vào đối đầu trực tiếp với Israel thay cho Ai Cập”, ông Andreas Krieg, giảng viên tại Trường Nghiên cứu An ninh, Đại học King’s College London, phân tích.
Song, sau vụ tấn công Doha, các quan điểm an ninh khu vực có dấu hiệu dịch chuyển. “Trước nay, an ninh vùng Vịnh dựa trên logic phụ thuộc: trả tiền để được bảo vệ. Nhưng sau sự kiện này, tư duy đó đang thay đổi – dù chậm”, ông Krieg nhận định.
Theo bà Cinzia Bianco, chuyên gia Hội đồng Quan hệ Đối ngoại châu Âu (ECFR), kịch bản dễ thành hiện thực hơn là mô hình “6+2”: 6 nước GCC cộng thêm Thổ Nhĩ Kỳ và Ai Cập. Bà cho rằng định dạng này có thể được thảo luận bên lề Đại hội đồng Liên Hợp Quốc tuần này.
Không giống Điều 5 của NATO, mức cam kết giữa các nước Arab khó đạt tới liên minh ràng buộc toàn diện. “Thực chất, đây là cách tập thể hóa an ninh – quốc phòng, đồng thời gửi thông điệp răn đe tới Israel”, bà Bianco nói.
Ông Krieg cũng nhận định, trong mô hình “6+2”, Thổ Nhĩ Kỳ là đối tác phi phương Tây đáng tin cậy nhất khi đã triển khai quân tại Qatar từ năm 2017, còn Ai Cập dù có sức mạnh quân sự nhưng độ tin cậy bị một số thủ đô vùng Vịnh nghi ngờ.
Dù vậy, cả ông Krieg và bà Bianco đều nhấn mạnh những thay đổi lớn nếu có sẽ diễn ra âm thầm: “Công khai có thể là thông cáo, hội nghị, tập trận chung; nhưng công việc quan trọng như chia sẻ dữ liệu radar, tích hợp hệ thống cảnh báo sớm hay thỏa thuận đặt căn cứ sẽ diễn ra kín đáo”, ông Krieg dự báo.
Mở rộng hợp tác quốc phòng
Trong khi đó, khả năng mở rộng hợp tác quốc phòng với các cường quốc ngoài khu vực cũng được tính đến. “Nga và Trung Quốc sẵn sàng lấp chỗ trống nếu Mỹ suy giảm vai trò, nhưng khó có thể thay thế ngay lập tức”, Sinem Cengiz, nhà nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu vùng Vịnh – Đại học Qatar, nhận định.
Theo chuyên gia Bianco, các nước vùng Vịnh vẫn cần công nghệ quốc phòng Mỹ và thực tế Washington chưa bao giờ phản đối ý tưởng hợp tác phòng thủ khu vực, thậm chí khuyến khích xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa thống nhất.
Ông Krieg cũng đồng quan điểm: “Hạ tầng phòng thủ của vùng Vịnh dựa chủ yếu vào công nghệ Mỹ. Nhưng ý nghĩa chính trị đã thay đổi: Washington không còn là ‘người bảo trợ cuối cùng’, mà chỉ là một đối tác có lợi ích riêng, hỗ trợ mang tính điều kiện và trao đổi. Lãnh đạo vùng Vịnh đang dần thích nghi với thực tế này, tìm cách xây dựng một cực an ninh do chính họ dẫn dắt, nằm giữa Iran và Israel”.
Hoàng Phạm/VOV.VN Theo DW, Al-Monitor