5 năm thực thi EVFTA: Doanh nghiệp thích ứng các tiêu chuẩn cao để xuất khẩu

5 năm thực thi EVFTA: Doanh nghiệp thích ứng các tiêu chuẩn cao để xuất khẩu
2 ngày trướcBài gốc
Hiệp định EVFTA giúp thương mại hai chiều Việt Nam-EU đạt nhiều kết quả nổi bật. (Ảnh: PV/Vietnam+)
Hiệp định EVFTA sau 5 năm thực thi (từ đầu tháng 8/2020) đã mang lại nhiều kết quả nổi bật cho quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU. Đặc biệt, với sự gắn kết ngày càng chặt chẽ, Việt Nam đã vươn lên trở thành đối tác xuất khẩu lớn thứ 10 của EU vào năm 2024.
Liên quan tới việc thực thi hiệp định này, ông Ngô Chung Khanh, Phó Vụ trưởng Vụ chính sách Thương mại đa biên (Bộ Công Thương) đã có một số chia sẻ với phóng viên những kinh nghiệm để nâng cao hiệu quả trong thời gian tới.
Nhiều kết quả tích cực về thương mại
- Xin ông cho biết về các kết quả nổi bật Việt Nam đạt được sau 5 năm Hiệp định EVFTA được thực thi?
Ông Ngô Chung Khanh: Về kết quả 5 năm thực thi Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) có một số điểm nổi bật. Xét về kim ngạch trao đổi thương mại hai chiều, kể từ năm 2020 (khi EVFTA có hiệu lực), kim ngạch hai chiều đã tăng mạnh, từ 55,4 tỷ USD lên 68,3 tỷ USD vào cuối năm 2024, trong đó kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU đạt khoảng 40,1 tỷ USD năm 2020 tăng lên 51,6 tỷ năm 2024.
Đáng chú ý, tỷ lệ tận dụng hiệp định này cũng đạt được nhiều kết quả khá tích cực (trong khoảng từ 24%-25%), có những mặt hàng tận dụng rất tốt, đặc biệt là các mặt hàng nông sản, thủy sản, kể cả dệt may, da giày. Những con số đó cho thấy, hiệp định EVFTA đang mang lại lợi ích tốt cho trao đổi thương mại hai chiều và cho hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Tuy nhiên cũng có một điểm chúng ta cần lưu ý. Mặc dù về giá trị tuyệt đối tăng lên, thế nhưng xét về góc độ tỷ trọng của thị trường EU trong tổng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam chưa tăng nhiều như chúng ta mong đợi.
Cụ thể, có năm tăng nhẹ, có năm thậm chí không tăng và có năm lại giảm, đây là điểm cần chú ý bởi EU là một thị trường truyền thống lớn, hiện nay thị phần của nhiều mặt hàng chúng ta còn tương đối khiêm tốn, kể cả những mặt hàng chủ lực như rau quả, thủy sản, dệt may, da giày... những ngành đó dư địa để tăng trưởng còn rất nhiều.
Ông Ngô Chung Khanh, Phó Vụ trưởng Vụ chính sách Thương mại đa biên (Bộ Công Thương). (Ảnh: PV/Vietnam+)
Ngoài ra, thương hiệu hàng Việt Nam vẫn chưa xuất hiện nhiều tại EU, mặc dù một số sản phẩm như: càphê, gạo… đã nỗ lực trong thời gian vừa qua, thế nhưng cũng có rất nhiều yếu tố, thương hiệu cũng chưa phát triển mạnh mẽ tại thị trường này.
-Về phía EU, đại diện EuroCham cũng ghi nhận “Bộ Công Thương đóng vai trò then chốt trong việc triển khai hiệu quả Hiệp định EVFTA, góp phần tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp châu Âu tiếp cận, mở rộng thị trường tại Việt Nam, cũng như làm cầu nối xúc tiến thương mại giữa hai khu vực thông qua các chương trình hội chợ, đối thoại chính sách...” Vậy, ông nhìn nhận như thế nào về thực tế này?
Ông Ngô Chung Khanh: Rất vui khi có một đánh giá khách quan từ các hiệp hội ngành hàng và trong đó có Hiệp hội EuroCham đánh giá vai trò của Bộ Công Thương. Điều đó cho thấy những nỗ lực của Bộ Công Thương thời gian qua phối hợp với các bộ, ngành, địa phương triển khai đã có những kết quả được các doanh nghiệp đánh giá tích cực.
Kể từ khi EVFTA có hiệu lực, Bộ Công Thương đã trình Chính phủ ban hành kế hoạch thực thi, sau đó Thủ tướng Chính phủ cũng chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương xây dựng kế hoạch thực thi và kể từ thời gian đó, các bộ, ngành, địa phương phối hợp rất chặt chẽ với các Hiệp hội ngành hàng để làm sao triển khai các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp, bao gồm nhiều nội dung trong cả một tổng thể, các cấu phần như: tuyên truyền, phổ biến, xây dựng pháp luật, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển bền vững và các vấn đề xã hội…
Tổng thể các nội dung này sẽ giúp chúng ta thực thi và tận dụng EVFTA hiệu quả hơn, từ đó mang lại những hiệu ứng tích cực đối với doanh nghiệp và không chỉ từ phía doanh doanh nghiệp Việt Nam mà còn cả các doanh nghiệp của châu Âu bao gồm cả doanh nghiệp từ châu Âu và doanh nghiệp của châu Âu đang làm ăn tại Việt Nam.
- Theo Trung tâm WTO và hội nhập (VCCI), điểm ghi nhận lớn nhất của EVFTA là hiệp định tỷ lệ doanh nghiệp biết tới và hưởng lợi nhiều nhất trong số các hiệp định đã ký kết, nhất là cộng đồng doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam. Nguyên nhân do đâu chúng ta đạt được kết quả này, thưa ông?
Ông Ngô Chung Khanh: Đầu tiên là các hoạt động tuyên truyền kể từ khi EVFTA có hiệu lực. Thống kê trung bình 1 năm, số lượng các hội nghị, hội thảo tập huấn do Bộ Công Thương, các Bộ, ngành liên quan địa phương, các hiệp hội và kể cả các tổ chức khác bao gồm cả doanh nghiệp tổ chức, trung bình 1 năm khoảng 340-350, tức là một ngày có một sự kiện như vậy, chưa kể các sự kiện hoạt động hội chợ thương mại…, các hoạt động mà Bộ Công Thương triển khai kể cả trong giai đoạn COVID-19, đó là tập huấn online, kể cả các ấn phẩm qua nhiều hình thức khác nhau.
Trên hết là EVFTA đã xuất hiện nhiều qua các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí được nhắc đến nhiều và có lượng phủ rất dày đặc trong thời gian vừa qua và điều đó cũng giúp cho doanh nghiệp và người dân hiểu rõ hơn, đầy đủ hơn, chính xác hơn về hiệp định này, vì thế khi VCCI khảo sát, kết quả cho thấy sự nhận biết của doanh nghiệp về EVFTA là rất rõ ràng.
Tập trung vào chất lượng, hướng đến nhu cầu của doanh nghiệp
- Theo các cam kết từ Hiệp định EVFTA thì càng tham gia sâu, các điều kiện tham gia thị trường EVFTA càng khắt khe hơn. Cùng với đó là các đòi hỏi mới, tiêu chuẩn cao hơn để đáp ứng tiêu chuẩn “xanh” của thị trường này. Vậy trước các thách thức này, Việt Nam cần phải làm gì để vượt qua, thưa ông?
Ông Ngô Chung Khanh: Có ý kiến cho rằng EU là thị trường khó tính, thị trường nhiều tiêu chuẩn phức tạp khó khăn. Thế nhưng tôi thấy hiện rất nhiều doanh nghiệp đang xuất khẩu và xuất khẩu rất tốt. Thậm chí, mới đây Hoa Kỳ có những chính sách thuế quan thay đổi chẳng hạn, nhiều doanh nghiệp đã chuyển hướng sang thị trường EU và đạt được tăng trưởng tốt, điều đó cho thấy khả năng thích ứng của doanh nghiệp Việt Nam không phải là không tốt mà có nhiều doanh nghiệp thích ứng rất nhanh chóng.
Khi có một áp lực nhất định, doanh nghiệp sẽ phải thay đổi và có những chính sách, chiến lược phù hợp để tiếp cận thị trường EU. Việc thị trường EU có tiêu chuẩn cao hay là tiêu chuẩn xanh thực ra không phải mới, mà lâu rồi.
Việc xác định thị trường EU dùng từ “khó tính” cũng không phải, người dân EU có thu nhập cao, với mức sống cao đương nhiên sẽ có những yêu cầu cao đối với sản phẩm hàng tiêu dùng, do vậy doanh nghiệp không thể bán những sản phẩm bao bì đơn sơ, chất lượng không đảm bảo, dư lượng kháng sinh, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật chưa được kiểm soát chặt chẽ…
Các doanh nghiệp tham gia Viet Nam Intanational Sourcing 2024. (Ảnh: PV/Vietnam+)
Chưa kể tư duy của EU là họ muốn quan tâm đến phát triển bền vững. Họ quan tâm đến môi trường và điều này cũng phù hợp với tư duy của Việt Nam. Chúng ta muốn bán sản phẩm mà khách hàng tiếp nhận thì chúng ta phải theo mong muốn của họ, do đó phải có một khái niệm, đó là đừng nói rằng thị trường EU khó, bởi khi chúng ta nói thị trường khó thì có những doanh nghiệp đã xuất khẩu rồi họ thấy không có vấn đề gì cả, nhưng có nhiều doanh nghiệp chưa xuất khẩu, hay đang chuẩn bị xuất khẩu nghe từ khó và họ sẽ sợ.
Vì thế, tôi nghĩ rằng đó là những nội dung cần phải rất rõ. EU là thị trường tốt, thị trường có một tiêu chuẩn cao, nhưng vấn đề quan trọng là thị trường đem lại giá trị cao, bởi khi bán vào thị trường EU với các tiêu chuẩn và các yêu cầu đó thì giá sẽ khác, hơn nữa biên độ lợi nhuận sẽ tốt hơn, cho nên tôi nghĩ việc này cần rất rạch ròi.
Thực tế thời gian qua, Bộ Công Thương vẫn phối hợp chặt chẽ với các bộ ngành, địa phương, Hiệp hội là triển khai các hoạt động nêu rất rõ trong kế hoạch thực hiện của Chính phủ. Tuy nhiên, về vận động tuyên truyền, thay vì theo số lượng, phải tập trung nhiều về chất lượng, hướng nhiều đến các nhu cầu của doanh nghiệp.
Ngoài ra cũng cần phải có một định hướng hỗ trợ, thay vì phân tán thì hướng đến những doanh nghiệp mà họ đang có khả năng xuất khẩu hay xuất khẩu tốt rồi phải xác định các biện pháp hỗ trợ, ví dụ hỗ trợ liên quan đến tiếp cận thị trường, hỗ trợ liên quan đến bảo vệ trí tuệ… và chúng ta hướng trọng tâm, trọng điểm hơn.
Đơn cử EVFTA, cần giúp cho các doanh nghiệp xây dựng kế hoạch, xây dựng chiến lược tiếp cận thị trường, hỗ trợ khách hàng… để làm sao các doanh nghiệp lớn lên, họ mạnh mẽ hơn và có thương hiệu tại thị trường đó, từ đó những doanh nghiệp lớn đấy có thể kết nối với doanh nghiệp nhỏ hơn để xây dựng một chuỗi cung ứng.
Doanh nghiệp dệt may đáp ứng các tiêu chuẩn thị trưởng để đẩy mạnh xuất khẩu. (Ảnh: Đức Duy/Vietnam+)
Liên quan đến chuỗi giá trị, hiện nay Chính phủ đang giao Bộ Công Thương triển khai xây dựng Đề án hệ sinh thái kết nối các chủ thể doanh nghiệp lại với nhau và không chỉ có sự hỗ trợ từ cơ quan địa phương, cơ quan Trung ương, mà cả sự hỗ trợ của hiệp hội logistics, ngân hàng, đơn vị tư vấn… và khi có hệ sinh thái, các sản phẩm rất dễ truy xuất nguồn gốc.
Hơn nữa, khi xây dựng hệ sinh thái, một sản phẩm của một doanh nghiệp trong hệ sinh thái với phần mềm App, chỉ cần đưa lên trên mạng và từ đấy cũng giúp đảm bảo về quy tắc xuất xứ trong bối cảnh ngày càng quan trọng như hiện nay.
Ngoài ra, Bộ Công Thương tiếp tục triển khai xây dựng chỉ số FTA Index mạnh mẽ và hiệu quả hơn nữa trong các năm tới để làm sao tất cả các ngành hàng, các cơ quan, chính quyền địa phương và trung ương phối hợp chặt chẽ nhằm giúp doanh nghiệp tận dụng hiệu quả hiệp định EVFTA.
- Xin trân trọng cảm ơn ông./.
(Vietnam+)
Nguồn VietnamPlus : https://www.vietnamplus.vn/5-nam-thuc-thi-evfta-doanh-nghiep-thich-ung-cac-tieu-chuan-cao-de-xuat-khau-post1052986.vnp