Bí mật nhà báo Mỹ tham dự vụ ném bom nguyên tử xuống Nhật Bản

Bí mật nhà báo Mỹ tham dự vụ ném bom nguyên tử xuống Nhật Bản
8 giờ trướcBài gốc
Tướng Mỹ chọn nhà báo phản ánh về kế hoạch nguyên tử
Tháng 4/1945, tướng lục quân Mỹ Leslie Groves tiếp cận ban biên tập tờ New York Times. Đây là dấu hiệu quan trọng cho thấy phía quân đội Mỹ sắp thông báo điều gì đó lớn cho công chúng. Viên tướng muốn mượn cây viết về khoa học của tờ báo này - William Laurence - trong quãng thời gian còn lại của cuộc Thế chiến.
Oanh tạc cơ Mỹ ném bom nguyên tử xuống Nhật Bản vào cuối Thế chiến II, tạo ra đám mây hình nấm. Đồ họa: Science Time.
Laurence vội lên đường thực thi nhiệm vụ ở thành phố Oak Ridge nằm ở nửa phía Đông của bang Tennessee. Tại đây, tướng Groves đã vén màn bí mật bảo vệ canh bạc thời chiến lớn nhất của Mỹ và giới thiệu nhà báo Laurence với Dự án Manhattan (dự án của Mỹ về phát triển bom hạt nhân).
Lục quân Mỹ muốn có một nhân viên dân sự trong đội ngũ của mình để giúp soạn thông cáo báo chí, viết tin tức và giải thích công chúng về những công việc rộng và phức tạp.
Laurence là một sự lựa chọn hợp lý. Người gốc Litva, Laurence nhập cư vào Mỹ khi còn là thiếu niên và theo học tại Đại học Havard và Boston. Làm việc cho New York Times, ông đi tiên phong trong việc đưa tin về khoa học cho công chúng phổ thông và đã giành được một giải thưởng báo chí Pulitzer vào năm 1936.
Một khi được kết nối với Dự án Manhattan, Laurence được quyền đi tới gần như mọi điểm chế tạo bom hạt nhân trên khắp nước Mỹ, phỏng vấn các nhà khoa học và kỹ sư hàng đầu. Ông mau chóng biết rõ về Dự án này hơn tất cả những người khác ngoại trừ nhóm gồm hàng ngàn người làm việc trực tiếp trong dự án.
Tháng 7/1945, Laurence tới một địa điểm gần Alamagordo trên sa mạc New Mexico (Mỹ) để chứng kiến vụ thử bom A đầu tiên, mang mật danh Trinity.
Chính Laurence đã viết thông cáo báo chí sai sự thật cho quân đội Mỹ sử dụng để che giấu sự việc này.
Số ít dân thường ở những khu vực xung quanh chứng kiến chớp lửa lớn vào ngày 15/7 năm đó được người ta bảo đảm rằng chẳng có gì phải e sợ cả, đó chỉ là một kho đạn cũ bị nổ. Trên thực tế, quân đội Mỹ đã khiến tất cả những người sống ở các bang cận kề bãi thử bị phơi nhiễm với đám phóng xạ trong không khí đầu tiên.
Tin độc quyền cho New York Times
Biết ơn “công lao” của Laurence, quân đội Mỹ vào ngày 2/8/1945 đã “phím” cho ban lãnh đạo của tờ New York Times về khả năng Mỹ sắp trút bom nguyên tử xuống đất Nhật Bản để tờ báo này có thời gian chuẩn bị đưa tin về việc này.
Ngày 6/8 năm đó, thế giới lần đầu biết về bom nguyên tử khi Mỹ thả quả bom loại này xuống thành phố Hiroshima của Nhật Bản. Ba ngày sau, lực lượng không quân của lục quân Mỹ ném bom nguyên tử một lần nữa, lần này xuống thành phố Nagasaki. Khi ấy, Laurence có mặt trên khoang một trong những chiếc máy bay của quân đội Mỹ trong phi vụ oanh tạc đặc biệt này.
Là nhân chứng báo chí chính thức cho Dự án Manhattan, Laurence giờ đây là thường dân Mỹ đầu tiên quan sát việc sử dụng thứ vũ khí mới và khủng khiếp này trong chiến tranh. Phóng sự chi tiết do ông viết (đăng trên New York Times một tháng sau đó) mở đầu bằng một câu đơn giản: “Chúng tôi đang trên đường ném bom xuống đất liền Nhật Bản”.
Trong hành trình nhiều tiếng đồng hồ bay tới mục tiêu, Laurence ngẫm nghĩ về khía cạnh đạo đức trong việc xóa sổ cả một thành phố. Ông ta tự hỏi liệu có gì đáng tiếc không rồi tự trả lời rằng không có gì phải lăn tăn cả khi tính đến việc Nhật Bản đã thực hiện cuộc tập kích Trân Châu Cảng năm 1941 và cuộc di chuyển chết chóc đối với các tù binh Mỹ vào năm 1942.
Khi đã vào không phận Nagasaki, Laurence và phi hành đoàn Mỹ chứng kiến cảnh tượng tàn khốc khi năng lực bom nguyên tử được giải phóng và tàn phá thành phố này.
Laurence mô tả vụ nổ bắt đầu như sao băng phóng ngược từ dưới lên thay vì từ trên trời xuống, rồi bùng phát thành một cây nấm khổng lồ trên nền trời.
Laurence đã ghi lại khoảnh khắc đáng sợ vào đầu “kỷ nguyên nguyên tử”. Trong những tuần tiếp theo, ông viết loạt bài về chủ đề này cho New York Times, giải thích cho công chúng phổ thông về các nguyên lý cơ bản của năng lượng nguyên tử. Loạt bài này về sau giành được giải Pulitzer năm 1946.
Trong những năm gần đây, Laurence đã bị một số nhà báo chỉ trích vì họ tin rằng ông không thực sự là phóng viên khách quan do có mối liên hệ với quân đội Mỹ.
Ngoài ra, Laurence cũng bị phát hiện mắc lỗi khi hạ thấp tác động của phóng xạ. Một số người đã kêu gọi tờ New York Times hoàn trả lại giải thưởng Pulitzer năm 1946 được trao cho Laurence.
Hơn nữa, bài phóng sự của Laurence về Nagasaki thể hiện góc nhìn của bên tấn công và không thấy được những đau đớn mà con người phải hứng chịu trên thực địa.
Những nhà báo đưa tin từ thực địa
Trong số những nhà báo đầu tiên phản ánh tại khu vực hiện trường Nhật Bản bị ném bom nguyên tử có Homer Bigart thuộc tờ New York Herald Tribune. Ông này đi cùng một nhóm nhà báo tới Hiroshima vào đầu tháng 9/1945.
Phản ánh của Bigart cố gắng tính toán tổn thất về sinh mạng. Ông đã xác định được khá chính xác: khoảng 53.000 người chết, 30.000 người khác mất tích và được cho là đã chết. Sau đó ông mô tả những tàn phá tại hiện trường. Bắt đầu từ vị trí cách trung tâm vụ nổ khoảng 4,8km, Bigart viết rằng mình chứng kiến dấu hiệu của phá hủy điển hình cho những gì ông từng thấy tại các thành phố bị oanh tạc ở châu Âu.
Bigart đưa tin rằng cư dân thành phố vẫn tiếp tục tử vong, với tốc độ khoảng 100 người mỗi ngày, hầu hết do bỏng và nhiễm trùng. Ông ám chỉ có một số vấn đề mà về sau được xác nhận là bệnh tật do phóng xạ.
Sang năm 1946, phóng viên và tác giả John Hersey thăm Hiroshima trong chuyến công tác phục vụ tạp chí New Yorker. Ông Hersey ở lại hiện trường lâu hơn thời gian Bigart được phép và nhà báo Hersey đã tạo ra một trong những kiệt tác báo chí về chiến tranh.
Thông qua việc đưa tin tỉ mỉ, Hersey theo sát trải nghiệm thương đau của 6 cá nhân từng ở Hiroshima vào buổi sáng quả bom nguyên tử phát nổ. Từng phút, từng cảnh một, ông tái tạo lại suy nghĩ và hành động của mỗi người sống sót này, từ những giây phút trước vụ nổ đến những ngày và tuần đầu tiên sau vụ nổ. Hoạt động phản ánh của ông hoàn thành vào tháng 8/1946. Khi biên tập viên Harold Ross của tạp chí New Yorker nhìn thấy tài liệu do Hersey gửi về, ông đã dành trọn số tạp chí ra ngày 31/8 năm đó cho loạt phóng sự của Hersey.
Phóng sự của Hersey là một sử liệu chủ chốt của thế kỷ 20 cũng như là viên đá thử vàng cho trí tưởng tượng của nhân loại trong kỷ nguyên hạt nhân.
Phóng sự ngập tràn sự kiện của Hersey về nỗi đau đớn tột cùng của con người đã trở thành một phần trong thế giới quan của hầu hết người dân trên hành tinh này. Trong phóng sự, Hersey hầu như không nói bằng giọng của riêng mình. Thay vào đó, ông đặt những nhân vật cụ thể trong hoạt động của họ và từ đó cho độc giả thấy những gì đã xảy ra.
Phóng sự của Hersey đã nhanh chóng được xuất bản dưới dạng sách, với nhan đề Hiroshima - một trong những cuốn sách bán chạy nhất thế giới.
Trung Hiếu/VOV.VN biên dịch Nguồn: The Conversation
Nguồn VOV : https://vov.vn/the-gioi/ho-so/bi-mat-nha-bao-my-tham-du-vu-nem-bom-nguyen-tu-xuong-nhat-ban-post1220379.vov