Theo GS-TS. Trần Thọ Đạt, nguyên thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng, đây là “vùng xám” cần phải biến thành “vùng sáng”, góp phần phát triển kinh tế tư nhân.
GS-TS. Trần Thọ Đạt, nguyên thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng.
Lao động phi chính thức là thành phần không thể thiếu trong nền kinh tế, nhưng dường như chúng ta chưa thực sự quan tâm đến khu vực này, thưa ông?
Không phải chỉ Việt Nam và những nền kinh tế ở trình độ thấp hơn mới có lao động phi chính thức, mà ngay cả những nước phát triển như Anh, Pháp, Đức, Mỹ... kinh tế phi chính thức không chỉ tồn tại, mà còn đóng góp vào GDP 15 - 20%. Ở các nước đang phát triển như Việt Nam, đóng góp của khu vực phi chính thức vào GDP còn nhiều hơn.
Theo số liệu của Cục Thống kê, lao động có việc làm bình quân 9 tháng năm nay vào khoảng 52 triệu người, trong đó tỷ lệ lao động phi chính thức có giảm so với cùng kỳ năm 2024, nhưng vẫn chiếm khoảng 63% tổng số lao động. Nếu trừ đi lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản (chiếm 26%), thì lao động phi chính thức ở khu vực dịch vụ, công nghiệp, xây dựng vô cùng lớn.
Khu vực kinh tế phi chính thức đóng vai trò quan trọng trong giải quyết việc làm, tạo sinh kế và duy trì sức sống cho nền kinh tế trong bối cảnh chuyển đổi nhanh, nhất là ở các đô thị lớn và khu vực nông thôn đang đô thị hóa, song chưa được quan tâm đúng mức. Nguyên nhân là do các hoạt động trong khu vực này phần lớn diễn ra ngoài khung khổ pháp lý nên thường không được thống kê một cách hệ thống như khu vực doanh nghiệp, hợp tác xã, vì vậy, chưa có các chính sách thực sự hữu hiệu để hỗ trợ khu vực kinh tế này.
Theo ông, vì sao lại chưa có cơ chế, chính sách quan tâm đến khu vực kinh tế đang thu hút tới 20 triệu lao động và ước tính đóng góp 20 - 25% cho nền kinh tế?
Khi nói về kinh tế phi chính thức, không chỉ xã hội, mà ngay cả các chuyên gia kinh tế cũng có sự nhầm lẫn khu vực này với khu vực kinh tế ngầm, thậm chí là hoạt động phi pháp, nên cho rằng cần phải thu hẹp, xóa bỏ nếu là bất hợp pháp.
Kinh tế ngầm là hoạt động bất hợp pháp nên cần phải ngăn chặn, đẩy lùi. Nhưng kinh tế phi chính thức lại hoạt động hợp pháp và lao động phi chính thức là lao động hợp pháp. Ngoài lao động làm việc trong khu vực hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản, còn có hộ kinh doanh không đăng ký, tiểu thương, người làm thuê không hợp đồng lao động, việc làm tạm thời, hàng rong, shipper, dịch vụ thủ công gia đình…
Có lẽ, do có sự nhầm lẫn giữa kinh tế phi chính thức và kinh tế ngầm, nên sự quan tâm đối với khu vực này, cũng như lao động trong khu vực này chưa được đúng mức.
Khung pháp lý hiện hành như Luật Doanh nghiệp, Luật Việc làm, Luật Bảo hiểm xã hội… chỉ điều chỉnh các hoạt động chính thức, còn bỏ ngỏ đối với khu vực phi chính thức.
Tuy nhiên, dấu hiệu của sự quan tâm đã le lói khi thực hiện Nghị quyết 139/NQ-CP (ngày 17/5/2025) về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân: Chính phủ sẽ đưa một phần trong số 5 triệu hộ, cá nhân kinh doanh cá thể (phi chính thức) trở thành doanh nghiệp (kinh tế chính thức) và thực hiện hóa đơn điện tử đối với mọi hoạt động kinh doanh để chính thức hóa hoạt động phi chính thức.
Thưa ông, kinh nghiệm thế giới quản lý khu vực kinh tế phi chính thức bằng cách nào?
“Cái gì tồn tại là hợp lý. Cái gì hợp lý sẽ tồn tại”. Kinh tế phi chính thức ra đời hàng ngàn năm trước và tồn tại cho đến nay nên nó hợp lý và vì nó hợp lý nên nó còn tồn tại.
Hiểu được triết lý này, các nước thường có 3 cách quản lý.
Thứ nhất, đối với kinh doanh nhỏ lẻ, chủ yếu làm thêm cải thiện thu nhập và giải quyết lao động tạm thời nhàn rỗi trong gia đình thì cứ để phát triển theo tự nhiên.
Thứ hai, đối với hoạt động kinh doanh lớn hơn, có hành vi lẩn trốn thuế, buôn bán hàng hóa không rõ nguồn gốc, không hóa đơn chứng từ thì quản lý chặt chẽ bằng các văn bản pháp luật, hành chính.
Thứ ba, chính thức hóa khu vực phi chính thức đối với hộ gia đình, cá nhân kinh doanh lớn, sử dụng nhiều lao động.
Còn ở Việt Nam hiện chưa có định nghĩa pháp lý thống nhất về khu vực kinh tế phi chính thức, cũng như chưa có chính sách tổng thể riêng biệt để quản lý và hỗ trợ khu vực này. Nhiều hoạt động trong khu vực này bị “bỏ rơi” ngoài hệ thống luật pháp, dẫn đến khoảng trống trong giám sát, hỗ trợ và thúc đẩy chuyển đổi sang khu vực chính thức.
Theo ông, Việt Nam nên tiếp cận theo hướng nào?
Cả 3 hướng.
Đối với hoạt động bán buôn, bán lẻ và sửa chữa xe có động cơ; dịch vụ ăn uống, lưu trú, giải trí nhỏ lẻ; vận tải hành khách cá nhân và hàng hóa nhỏ (shipper); xây dựng dân dụng nhỏ; hoạt động sản xuất thủ công và dịch vụ cá nhân khác như may mặc, sửa chữa, cắt tóc… thì cứ để tự phát triển. Bởi phần lớn các đơn vị trong khu vực này là hộ gia đình hoặc lao động cá thể, không có đăng ký kinh doanh, doanh thu thấp dưới ngưỡng kê khai thuế; thường xuyên thay đổi địa điểm hoặc hình thức hoạt động. Mô hình kinh doanh này chủ yếu ngắn hạn, tạm thời và thiếu tích lũy để mở rộng quy mô, nên để “thuận thiên” là cách quản lý tối ưu.
Đối với hoạt động kinh doanh có quy mô lớn hơn, kể cả thương mại điện tử, kinh doanh trên nền tảng số, nếu doanh thu đến ngưỡng phải chịu thuế (hiện tại là trên 100 triệu đồng/năm và dự kiến sẽ tăng ít nhất gấp đôi trong thời gian tới) thì bỏ thuế khoán, nộp thuế theo doanh thu, thực hiện hóa đơn điện tử và khuyến khích thành lập doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ. Tất nhiên, với những trường hợp trốn thuế, buôn bán hàng hóa không rõ nguồn gốc, hàng nhái, hàng giả, thì phải triệt tiêu. Có như vậy mới làm sáng “vùng xám” trong khu vực kinh tế tư nhân.
Luật Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ đưa ra nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ hộ gia đình, cá nhân kinh doanh (phi chính thức) thành lập doanh nghiệp. Kết quả đạt được ra sao, thưa ông?
Nghị quyết 68-NQ/TW đặt mục tiêu có thêm 1 triệu doanh nghiệp hoạt động trong vòng 5 năm tới. Mục tiêu này đã tính đến một phần trong số 5 triệu hộ gia đình, cá nhân kinh doanh sẽ thành lập doanh nghiệp.
Một trong những mục tiêu của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ là khuyến khích nhóm sản xuất, kinh doanh nhỏ ổn định chính thức hóa hoạt động trên cơ sở “nâng đời” thành doanh nghiệp. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều cá nhân, hộ kinh doanh không muốn “ra ánh sáng” do thiếu lòng tin vào hệ thống pháp lý và lo ngại bị kiểm tra, xử phạt, bị truy thu trong thời gian họ kinh doanh cá thể mà chưa chấp hành đúng quy định về thuế, hóa đơn, chứng từ.
Giải pháp để chính thức hóa một phần kinh tế phi chính thức là không áp dụng mệnh lệnh hành chính cứng nhắc, thay vào đó để họ tự nguyện, thông qua chính sách hỗ trợ, khuyến khích như miễn, giảm thuế trong thời gian đầu hoạt động; không truy thu thuế, xử phạt vi phạm thời kỳ họ hoạt động phi chính thức.
Chính quyền cấp xã với quy mô lớn hơn, nơi tiếp xúc trực tiếp với các chủ thể phi chính thức, cần được phân cấp, phân quyền phù hợp để thực hiện các chương trình hỗ trợ, tư vấn và thúc đẩy chính thức hóa hoạt động kinh tế phi chính thức, bảo vệ lao động khu vực này.
Mạnh Bôn