Để tăng trưởng 8,5%, quý IV cần tăng 10,2%
Theo Cục Thống kê, tăng trưởng GDP quý III đạt 8,23%, là mức cao thứ hai kể từ năm 2011, chỉ thấp hơn quý III/2022 (tăng 14,38%). Tính chung 9 tháng, GDP tăng 7,85%, mức tăng cao thứ hai trong hơn một thập kỷ, thể hiện rõ sự phục hồi mạnh mẽ của sản xuất, tiêu dùng và đầu tư sau giai đoạn điều chỉnh chính sách vĩ mô.
Động lực tăng trưởng đến từ cả 3 khu vực: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,83%, đóng góp 5,36%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,69%, đóng góp 43,07%; khu vực dịch vụ tăng 8,48%, đóng góp 51,57%. Riêng khu vực công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là “đầu tàu” với mức tăng gần 10%, khẳng định vai trò trụ cột của sản xuất công nghiệp trong cơ cấu GDP. Những con số này cho thấy, nền kinh tế đang vận hành với độ ổn định cao và sự đóng góp ngày càng cân đối từ các ngành.
Biến động tỷ giá - một trong rào cản ảnh hưởng đến mục tiêu tăng trưởng những tháng cuối năm. Ảnh: Đức Thanh
Xuất nhập khẩu cũng khả quan cho dù gặp nhiều yếu tố bất lợi. Tổng kim ngạch 9 tháng đạt 680,7 tỷ USD, tăng 17,3% so với cùng kỳ; xuất khẩu tăng 16%, nhập khẩu tăng 18,8%, đem lại thặng dư thương mại 16,8 tỷ USD. Song song với đó, thị trường lao động khởi sắc, tỷ lệ thất nghiệp duy trì ở mức 2,22%, thu nhập bình quân của người lao động đạt 8,3 triệu đồng/tháng, tăng 10% so với cùng kỳ.
Theo kịch bản tăng trưởng của Cục Thống kê, để đạt mức tăng trưởng 8% cho cả năm, GDP cần tăng 8,4% trong quý IV. Nếu phấn đấu đạt 8,3%, thì GDP quý IV phải tăng 9,5%, và để đạt 8,5%, thì quý IV phải tăng tới 10,2%. Cục trưởng Cục Thống kê Nguyễn Thị Hương nhận định, đây là “thách thức rất lớn”, khi kịch bản hiện mới “chạm” đến mức tăng 8% nếu chúng ta hết sức cố gắng, bởi quý IV được dự báo chịu nhiều áp lực lớn.
Thách thức trước hết đến từ bối cảnh quốc tế. Kinh tế toàn cầu vẫn tăng trưởng chậm, thương mại quốc tế tiềm ẩn rủi ro khi Mỹ áp thêm lớp thuế đối ứng với một số mặt hàng của Việt Nam, khiến chi phí tăng cao. Biến động tỷ giá và giá năng lượng thế giới có thể đẩy chi phí sản xuất lên, trong khi cầu bên ngoài yếu đi do lạm phát tại nhiều nền kinh tế lớn chưa được kiểm soát hoàn toàn.
Áp lực lạm phát trong nước cũng nổi lên. Giá nhà ở thuê bình quân tăng 7,3% trong 9 tháng năm 2025, cao gấp hơn 2 lần tốc độ tăng CPI chung. Cùng với đó, nhu cầu tiêu dùng cuối năm, chi phí vận chuyển, nguyên vật liệu và xăng dầu tăng theo mùa vụ có thể khiến giá hàng hóa nhích lên.
Đại diện Ban Thống kê Dịch vụ và Giá (Cục Thống kê) nhận định, nếu xu hướng này duy trì, lạm phát cơ bản có thể chịu sức ép đáng kể. Thêm vào đó, dòng vốn tín dụng rót vào nền kinh tế đang tăng cao, nhưng phân bổ chưa phù hợp khi tập trung tới 70% vào khu vực thương mại dịch vụ. Khi dòng vốn rót quá mạnh vào thương mại dịch vụ, thì nó có thể kích cầu tiêu dùng ngắn hạn và tạo sức ép lên giá của hàng hóa và dịch vụ.
Cần có sự bứt phá đồng thời của các động lực
Đầu tư công cũng là một vấn đề cần lưu ý khác. Dù 9 tháng qua, vốn đầu tư công tăng tới 27,8% và đạt 55,7% kế hoạch, song mức giải ngân này vẫn cách xa mục tiêu cả năm, trong khi chỉ còn 3 tháng nữa. Nhiều dự án vẫn vướng mắc khâu giải phóng mặt bằng, thiếu vật liệu xây dựng, hoặc chậm trễ trong quy trình thẩm định, đấu thầu.
Việc chuyển đổi sang mô hình chính quyền địa phương 2 cấp cũng gây ảnh hưởng, khiến một số dự án, công trình bị chững lại. Bà Phí Thị Hương Nga - Trưởng ban Ban Thống kê Công nghiệp và Xây dựng (Cục Thống kê) cảnh báo, nếu tiến độ không được đẩy nhanh trong quý cuối năm, tác động lan tỏa từ đầu tư công tới sản xuất và tăng trưởng sẽ bị hạn chế.
Cùng với đó, chất lượng nguồn nhân lực và năng lực cạnh tranh doanh nghiệp vẫn là vấn đề nổi cộm. Tỷ lệ lao động qua đào tạo mới đạt 29,1%, năng suất còn thấp; chi phí logistics và vận tải cao khiến hàng hóa Việt Nam kém cạnh tranh hơn. Nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp khó trong tiếp cận vốn trung và dài hạn, trong khi thị trường trái phiếu và bất động sản tuy phục hồi, nhưng vẫn tiềm ẩn rủi ro nợ xấu.
Ngoài ra, Cục trưởng Nguyễn Thị Hương lưu ý thêm, quý IV năm nay, nông nghiệp có thể chịu ảnh hưởng của thiên tai (năm ngoái, thiệt hại do bão Yagi lên tới 80.000 tỷ đồng).
Dù vậy, vẫn còn nhiều yếu tố thuận lợi dự kiến tác động tích cực đến triển vọng tăng trưởng. Cùng với các động lực truyền thống là công nghiệp, xuất khẩu, đầu tư công và tiêu dùng nội địa, năm 2025 chứng kiến sự nổi lên của 3 động lực mới: kinh tế số, kinh tế xanh và cải cách thể chế.
Chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là thương mại điện tử và dịch vụ, tạo không gian tăng trưởng mới. Dòng vốn FDI chuyển dịch tích cực vào các lĩnh vực năng lượng tái tạo, công nghệ cao và công nghiệp phụ trợ, mở ra hướng đi bền vững cho mô hình tăng trưởng xanh, phù hợp với mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Hàng loạt văn bản pháp lý mới được ban hành trong năm đã giúp minh bạch hóa thị trường bất động sản và nâng cao niềm tin của nhà đầu tư
Ở cấp địa phương, nhiều tỉnh, thành phố đã đạt mức tăng trưởng 2 con số, đặc biệt là Quảng Ninh, Hải Phòng, Ninh Bình, Phú Thọ, Quảng Ngãi và Bắc Ninh. Riêng TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội đóng góp lần lượt 22,73% và 12,88% vào tăng trưởng GDP 9 tháng của cả nước. Nhóm địa phương tăng trưởng cao tập trung ở các tỉnh mạnh về công nghiệp chế biến, chế tạo, xuất khẩu và du lịch. Điều này cho thấy sự lan tỏa mạnh mẽ của khu vực công nghiệp chế biến, chế tạo và dịch vụ du lịch, đồng thời khẳng định vai trò dẫn dắt của các trung tâm kinh tế lớn.
Để vượt qua được các thách thức, khai thác được tối đa các yếu tố thuận lợi và đạt mục tiêu tăng trưởng cao của cả năm, các chuyên gia cho rằng, cần có sự bứt phá đồng thời của cả 4 động lực: đầu tư công - tiêu dùng - xuất khẩu - công nghiệp chế biến, chế tạo, trong khi vẫn giữ vững ổn định vĩ mô. Mục tiêu này rất khó đạt, nhưng nếu thành công, đó sẽ là minh chứng đầy thuyết phục về năng lực phục hồi vượt trội của kinh tế Việt Nam.
Căng thẳng thương mại thế giới gây sức ép với tăng trưởng trong nước
Nhìn từ diễn biến kinh tế thế giới, các đối tác lớn của Việt Nam gặp khó khăn do căng thẳng thương mại đang tạo ra nhiều thách thức cho tăng trưởng kinh tế trong nước và sự suy giảm niềm tin tiêu dùng của các đối tác này tác động đến xuất khẩu.
Trong khi đó, việc chậm giảm lãi suất chính sách của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) và mức giảm lãi suất kỳ vọng thấp tác động tới các nền kinh tế đang phát triển đang thực thi chính sách tiền tệ nới lỏng, trong đó Việt Nam, ở nhiều phương diện: thúc đẩy dòng vốn USD ngắn hạn rời khỏi quốc gia để tìm kiếm lợi nhuận tốt hơn trên thị trường tài chính Mỹ; các ngân hàng trung ương nắm giữ trái phiếu Chính phủ Mỹ bị lỗ do lợi suất tăng trong khi chỉ số giá đồng USD giảm...
Mặt khác, đà suy yếu của đồng USD trên thị trường quốc tế và dự báo điều chỉnh lãi suất của Fed trong thời gian tới có thể tác động tới dòng vốn FDI, khi dòng vốn ngoại có thể quay trở lại các thị trường phát triển, ảnh hưởng tới mục tiêu tăng trưởng của Việt Nam.
Hoàng Yến