Già hóa dân số hiện hữu
Thảo luận về Luật Việc làm (sửa đổi) tại Quốc hội, đại biểu Nguyễn Thị Hà (tỉnh Bắc Ninh) cho rằng xuyên suốt dự thảo luật vẫn còn thiếu vắng các quy định nhằm mục đích hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thúc đẩy phát triển kinh tế tri thức và khai thác hiệu quả thế mạnh của giai đoạn dân số vàng, vượt qua bẫy thu nhập trung bình mà các nước đang phát triển gặp phải.
Bà Hà phân tích, Việt Nam đang đếm ngược 10 năm giai đoạn vàng để chuyển từ già hóa dân số sang dân số già như các nước châu Âu hiện nay. Do đó, cần nghiên cứu bổ sung các quy định cụ thể nhằm ưu tiên hỗ trợ đối với nhóm lao động mới như lao động công nghệ, lao động trong bối cảnh kinh tế số, chuyển đổi số; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào đào tạo nâng cao trình độ lao động.
“Các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp đặt hàng các doanh nghiệp lớn, hoặc khuyến khích họ tham gia từ khâu xây dựng chương trình và mục tiêu đào tạo. Như vậy sẽ tận dụng được tối đa lợi thế về nhân lực dồi dào, biến thế hệ trẻ thành lực lượng lao động vàng đúng nghĩa, tạo sự đột phá trong xây dựng thị trường lao động hiệu quả”, bà Hà nêu.
Đại biểu Nguyễn Thị Hà (tỉnh Bắc Ninh)
Đại biểu Trần Thị Thanh Lam (tỉnh Bến Tre) nhấn mạnh về vai trò và sự cần thiết của của cơ sở dữ liệu về thị trường lao động đối với quá trình xây dựng thị trường lao động bền vững…
Bà Lam cho hay nhiều năm qua, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐ-TB-XH)đã nỗ lực vượt khó để xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về thông tin thị trường lao động. Hệ thống cơ sở dữ liệu này đã được cập nhật hằng năm, ở từng tỉnh, thành trong cả nước.
Đại biểu Lam nhấn mạnh, chủ trương phát triển thị trường lao động và nâng cao chất lượng lao động để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội là phù hợp với quy luật phát triển của xã hội. Việc hình thành, xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay và cả trong tương lai.
“Cơ sở dữ liệu thị trường lao động giữ vai trò cốt yếu, góp phần chuẩn xác trong phân tích, đánh giá, dự báo nguồn cung, cầu lao động để có cơ sở định hướng chiến lược phát triển kinh tế- xã hội. Vì vậy, trong dự án luật lần này, cần quy định yêu cầu về hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về thông tin thị trường lao động, nhằm khắc phục được những bất cập đã được nhận diện từ thực tiễn trong suốt thời gian qua khi thực hiện Luật Việc làm 2013”, bà Lam nói.
Cũng theo bà Lam, cần phải khẩn trương chuyển đổi từ phương pháp thực hiện đến việc ứng dụng triệt để, khai thác tài nguyên từ hệ thống dữ liệu này để phục vụ cho cung – cầu lao động nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Tăng năng suất lao động, tạo ra việc làm chất lượng cao
Bộ trưởng Bộ LĐ-TB-XH Đào Ngọc Dung nêu rõ, vấn đề việc làm chịu tác động bởi nhiều hệ thống pháp luật. Việc sửa đổi luật cần tiếp tục vừa rà soát, vừa bổ sung nhưng cũng dự báo những vấn đề mới và đưa ra một số vấn đề có tính chất vượt trội để hoàn thiện thể chế, khung khổ pháp lý.
“Mục tiêu là thúc đẩy xây dựng thị trường lao động Việt Nam đồng bộ, linh hoạt, đa dạng, bền vững và hội nhập, trọng tâm là tạo ra việc làm đầy đủ và chất lượng cao, cũng như năng suất lao động cao hơn. Đây là vấn đề trọng tâm trong luật này cần đặt ra và nhìn nhận một cách nghiêm túc về thị trường lao động Việt Nam”, ông Dung nêu.
Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung khẳng định thể chế phải góp phần quản trị, đặc biệt là tạo ra khung khổ pháp lý tạo việc làm đầy đủ, chất lượng và năng suất lao động cao.
Đối với vấn đề tạo việc làm đầy đủ và chất lượng, ông Dung cho biết tập trung vào những vấn đề có tính chất nguyên tắc. Gốc là phải thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội để giải quyết gia tăng việc làm, cải thiện hệ thống hỗ trợ việc làm, hệ thống dịch vụ công về việc làm, tăng cường bảo vệ quyền, lợi ích của người lao động, kiên quyết xóa bỏ rào cản thể chế bất bình đẳng trong việc làm, cải thiện hệ thống an sinh xã hội, thúc đẩy tạo việc làm và việc làm chất lượng cao.
Trong đó, theo ông Dung, Nhà nước, doanh nghiệp phải đóng vai trò chủ đạo, người lao động giữ vai trò chủ động trong công việc của mình và kích hoạt các nguồn lực xã hội, sự tham gia của cả xã hội và tạo công ăn việc làm và phúc lợi xã hội.
Về năng suất lao động, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung nêu rõ, trong bối cảnh thị trường lao động biến đổi đa dạng, phức tạp và nhanh chóng khó lường như hiện nay, chúng ta phải thích ứng nhanh với xu hướng phòng ngừa già hóa dân số, thay đổi môi trường, biến đổi khí hậu và tác động nhanh, sâu sắc, căn bản của khoa học công nghệ. Điều này vừa là tận dụng lợi thế nhưng cũng phòng ngừa và hạn chế tất cả những rủi ro thách thức.
“Việt Nam chúng ta phụ thuộc bốn yếu tố cơ bản: mức độ thay đổi và loại hình công nghệ sẽ thay đổi; trình độ kỹ năng lao động; chính sách quốc gia áp dụng hỗ trợ đào tạo và đào tạo lại cho người lao động; tác động của trí tuệ nhân tạo. Trong bối cảnh đó, khó có thể chi tiết hóa tất cả các chính sách trong luật này, mà đòi hỏi phải xây dựng khung chính sách có tính chất mở, dễ điều chỉnh, dễ thích ứng trong từng thời gian”, ông Dung nêu.
Quốc hội thảo luận về Luật Việc làm (sửa đổi)
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho hay sẽ tập trung vào một số vấn đề cơ bản nhưng mở cửa tiếp cận kỹ năng cho tất cả mọi người, nhất là tiếp cận rộng rãi về giáo dục đào tạo, học suốt đời, tư vấn đào tạo kỹ năng thích ứng trong nghề nghiệp; hoàn thiện thị trường lao động toàn diện thích ứng và bền vững, giải quyết tình trạng bất ổn phi chính thức trên thị trường lao động; cải thiện chất lượng việc làm; thúc đẩy sự gia tăng, sự năng động của doanh nghiệp, sự lan tỏa của công nghệ; hạn chế tác động của mặt trái thị trường…
“Sửa Luật Việc làm cũng cần tập trung lấy người lao động, lấy việc làm là trọng tâm của tăng năng suất lao động bền vững. Mỗi đối tượng trong lao động, trong nhóm tuổi cần có những chính sách phù hợp”, ông Dung khẳng định.
Lam Thanh