Bảo tàng sống giàu bản sắc
Mỗi lễ hội ở Việt Nam đều gắn liền với những giá trị lịch sử, tâm linh và sinh hoạt nông nghiệp – nơi người dân gửi gắm ước vọng mùa màng bội thu, quốc thái dân an, gia đạo bình yên. Tuy nhiên, lâu nay sự thay đổi trong cách tổ chức, quy mô và mục đích của nhiều lễ hội gần đây đang khiến giới chuyên môn và dư luận quan tâm, thậm chí lo ngại: đâu là ranh giới giữa việc “làm mới để hấp dẫn du khách” và “thương mại hóa” quá đà?
Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, lễ hội truyền thống vốn được xem là “bảo tàng sống” – nơi lưu giữ ký ức cộng đồng và phản ánh bản sắc vùng miền. Thế nhưng, không ít lễ hội hiện nay đang bị chi phối bởi yếu tố kinh tế, dẫn đến tình trạng biến tướng.
Lễ hội Chùa Hương (Hà Nội). Ảnh: Thư Hoàng
PGS.TS Trần Hữu Sơn - nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa Dân gian nhận định: “Nhiều địa phương xem lễ hội là công cụ kích cầu du lịch, từ đó gia tăng các hoạt động dịch vụ, thương mại, khiến phần lễ bị thu hẹp, phần hội bị phóng đại. Cái hồn của lễ hội – tức là tính thiêng và tinh thần cộng đồng – vì thế mà phai nhạt dần”.
Không khó để nhận ra thực tế này ở nhiều nơi. Tại một số lễ hội lớn, không gian linh thiêng quanh di tích bị lấn át bởi hàng quán, dịch vụ ăn uống, bày bán đồ lưu niệm. Thay vì tập trung vào nghi lễ truyền thống hay hoạt động văn hóa dân gian, không ít người tham dự chỉ coi đây là dịp du xuân, chụp ảnh, mua sắm. Ở một số nơi, các hoạt động biểu diễn hiện đại – ca nhạc, vũ đạo, trình diễn ánh sáng – được đưa vào sân khấu lễ hội, vô tình khiến lễ hội mang dáng dấp của một sự kiện giải trí hơn là sinh hoạt văn hóa.
Thực tế, việc điều chỉnh cách tổ chức lễ hội để phù hợp với đời sống hiện đại là xu hướng tất yếu. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải giữ được tinh thần cốt lõi và giá trị văn hóa gốc của lễ hội.
Theo PGS.TS Trần Hữu Sơn: “Không nên nhìn việc làm mới lễ hội như một điều tiêu cực. Vấn đề nằm ở cách làm – nếu đổi mới dựa trên nền tảng tri thức văn hóa, tôn trọng nghi lễ, truyền thống thì đó là sáng tạo; còn nếu chạy theo lợi nhuận, thỏa mãn thị hiếu số đông thì đó là biến dạng”.
Nhiều địa phương đã có những cách làm đáng ghi nhận. Chẳng hạn, Lễ hội Đền Hùng (Phú Thọ) những năm gần đây đã giảm các hoạt động mang tính phô trương, chú trọng phần lễ với nghi thức dâng hương, rước kiệu, và đẩy mạnh các chương trình giới thiệu di sản phi vật thể như hát Xoan, trò Trám. Hay tại Hội An, các lễ hội cổ truyền như Lễ vía Bà Thu Bồn hay Lễ cầu ngư được tái hiện trong không gian di sản, kết hợp trải nghiệm du lịch cộng đồng nhưng vẫn giữ nguyên tinh thần tôn vinh di sản và tri ân tiền nhân.
Giữ hồn cốt trong dòng chảy hiện đại
Để lễ hội vừa hấp dẫn du khách vừa giữ được bản sắc, nhiều chuyên gia cho rằng cần có sự cân bằng giữa ba yếu tố: bảo tồn – sáng tạo – quản lý. Bảo tồn là khâu gốc rễ: ghi chép, phục dựng nghi lễ, trang phục, âm nhạc, trò chơi dân gian, ẩm thực truyền thống… sao cho đúng với nguyên bản.
Sáng tạo là yếu tố cần thiết để thu hút công chúng trẻ: ứng dụng công nghệ trình chiếu, truyền thông số, xây dựng tour trải nghiệm văn hóa; song mọi đổi mới phải dựa trên tinh thần tôn trọng di sản.
Theo PGS.TS Nguyễn Mạnh Hà - nguyên Trưởng khoa Lịch sử Đảng (Học viện Báo chí và Tuyên truyền), quản lý là “chiếc van an toàn”. Cơ quan chức năng cần giám sát chặt chẽ việc tổ chức lễ hội, tránh tình trạng thương mại hóa, mê tín, hay xâm phạm không gian di tích.
Bên cạnh đó, nâng cao nhận thức cộng đồng - đặc biệt là lớp trẻ - cũng là cách giữ lễ hội sống bền vững. Khi người dân hiểu rõ giá trị văn hóa của lễ hội, họ sẽ không chỉ đến để vui chơi, mà còn góp phần gìn giữ, truyền nối cho thế hệ sau.
Một lễ hội có thể trở thành “thương hiệu du lịch” nhưng không thể đánh đổi bản sắc văn hóa lấy sự hào nhoáng nhất thời. Nguồn lực kinh tế từ du lịch là cần thiết, song giá trị lâu dài của lễ hội nằm ở cộng đồng – ở sự gắn bó của người dân với phong tục, nghi lễ, ký ức tập thể.
Khi du khách tìm đến một lễ hội truyền thống, điều họ mong muốn không chỉ là ngắm cảnh hay chụp ảnh, mà là được sống trong không gian văn hóa nguyên bản - nơi con người, tín ngưỡng và thiên nhiên hòa làm một.
Theo ông Hà, để làm được điều đó, mỗi địa phương cần xem mình không chỉ là “chủ nhà của du khách”, mà là người gìn giữ di sản. Mỗi nghệ nhân, mỗi người dân, mỗi nhà quản lý phải hiểu rằng: giữ lễ hội chính là giữ hồn của quê hương.
Lễ hội truyền thống dù ở miền xuôi hay miền ngược - đều mang trong mình mạch nguồn văn hóa Việt chảy suốt bao đời. Việc đưa du lịch vào không gian lễ hội là xu hướng tất yếu của thời hội nhập, nhưng điều cần thiết hơn cả là sự tỉnh táo và trách nhiệm.
Giữa nhịp sống hiện đại, khi mọi thứ đều có thể được “bán vé” và “truyền thông hóa”, việc giữ lại một không gian linh thiêng, một nhịp trống hội xưa, một nét nghi lễ truyền thống chính là cách để mỗi người chúng ta gìn giữ hồn cốt dân tộc - để lễ hội không chỉ là cuộc vui, mà còn là ký ức sống động của văn hóa Việt trong lòng thế giới hôm nay.
Văn Thanh