Sông Bến Hải, cầu Hiền Lương - "chứng nhân" của nỗi đau chia cắt đất nước
Nhìn trên địa đồ Tổ quốc, sông Bến Hải như một dải lụa mảnh, bắt nguồn từ trên đỉnh núi Động Chân thuộc dãy Trường Sơn trước khi buông mình chảy dọc theo vĩ tuyến 17 và tìm ra biển lớn ở Cửa Tùng. Bến Hải cũng là ranh giới tự nhiên giữa hai bờ Bắc-Nam.
Cụm Di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt Ðôi bờ Hiền Lương - Bến Hải (nhìn từ hướng Nam-Bắc). Ảnh tư liệu: TTXVN
Theo sách “Đại Nam nhất thống chí”, năm 1928, phủ Vĩnh Linh đã huy động hàng nghìn nhân công địa phương dựng một cây cầu để nối hai bờ sông Bến Hải. Chỉ sau một thời gian ngắn, cầu Hiền Lương được đưa vào sử dụng với chiều rộng là 2 m, đóng bằng cọc sắt và dành riêng cho người đi bộ. Sau đó, thực dân Pháp đã cho nâng cấp cầu để xe cỡ nhỏ có thể đi qua.
Đến năm 1950, để phục vụ cho nhu cầu giao thông và quân sự ngày càng lớn, thực dân Pháp đã xây dựng lại cây cầu bằng bê tông cốt thép, chính thức biến cầu Hiền Lương thành một phần quan trọng kết nối dặm đường thiên lý Bắc - Nam. Vào thời điểm này, cầu dài 162 m, rộng 3,6 m với trọng tải 10 tấn. Tuy nhiên, cây cầu tồn tại được 2 năm trước khi bị du kích đặt bộc phá đánh sập để ngăn chặn sự tiến công của thực dân Pháp.
Tháng 5/1952, cầu Hiền Lương được xây mới với 7 nhịp, dài 178 m, trụ bằng bê tông cốt thép, dầm thép, mặt lát bằng gỗ thông, rộng 4 m. Hai bên cầu có thành chắn cao 1,2 m. Trọng tải tối đa lúc này đã lên tới 18 tấn. Đây cũng là cây cầu tồn tại trong suốt 15 năm tiếp theo với vai trò là “giới tuyến” lịch sử.
Theo đó, năm 1954, sau khi để thua trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, thực dân Pháp đồng ý trao trả độc lập cho Việt Nam theo Hiệp định Genève. Tháng 7/1954, Hiệp định Genève được ký kết, đất nước tạm thời chia đôi ở vĩ tuyến 17. Và cầu Hiền Lương nằm trên vĩ tuyến 17 được chọn làm giới tuyến quân sự tạm thời.
Theo Hiệp định Genève, giới tuyến quân sự không được coi là biên giới quốc gia và chỉ tồn tại cho đến khi hoàn thành Tổng tuyển cử vào 2 năm sau đó. Thi hành Hiệp định Genève, hàng vạn cán bộ, chiến sĩ Nam bộ đã tập kết ra miền Bắc với niềm tin và hy vọng 2 năm sau sẽ trở về bằng cuộc tổng tuyển cử như quy định.
Thế nhưng, ở phía bờ Nam, với ý đồ chia cắt Việt Nam lâu dài và tránh né việc “thắng lợi của Hồ Chí Minh sẽ như nước triều dâng không thể cản nổi” (Trích cuốn Chiến thắng bằng mọi giá - Cecil B. Currey), chính quyền Ngô Đình Diệm dưới sự hậu thuẫn của Mỹ đã kiên quyết từ chối tổng tuyển cử. Năm 1956, chính quyền Việt Nam cộng hòa tuyên bố “khóa tuyến”, phản bội lại Hiệp định Genève và biến vĩ tuyến 17 thành “biên giới quốc gia” đồng thời khiến Hiền Lương trở thành cây cầu chia cắt đôi bờ suốt 15 năm tiếp theo.
Trong suốt thời gian đó, sông Bến Hải và cầu Hiền Lương trở thành chứng nhân của nỗi đau chia cắt. “Cách một dòng sông mà đó thương đây nhớ/ Chung một nhịp cầu mà duyên nợ cách xa”. Dòng sông Bến Hải bên nhớ, bên thương trở thành mảnh đất oằn mình chịu bom đạn quân thù. Kẻ thù dựng lên đồn bốt, rào sắt, xe tăng, đại bác, nhưng không thể khuất phục lòng quả cảm, trí tuệ và niềm tin tất thắng của Nhân dân đôi bờ Bến Hải. Nhà điện ảnh Thụy Điển Joris Ivens từng thốt lên: “Vĩ tuyến 17 là nơi trưng bày sự man rợ tột cùng của đế quốc Mỹ và lòng dũng cảm đến mức thần thánh của Nhân dân Việt Nam”.
Mặc dù bị kẻ thù vây hãm, Nhân dân hai bờ vẫn tìm mọi cách nhắn gửi yêu thương. Họ nói với nhau bằng ký hiệu, bằng kỷ vật quen thuộc. Người vợ mặc chiếc áo ngày tiễn chồng đi tập kết, người mẹ bồng con thơ mới chào đời, người anh dắt theo chiếc xe đạp mới mua... Ai không có gì, thì đi dọc bờ sông, tự gọi tên mình. Bên kia nghe thấy, nhận ra người thân thì tìm cách đáp lại, để rồi cùng tìm đến khúc sông hẹp, nhìn nhau, giơ tay chào nhau, cười, khóc với nhau. Ở bờ Nam, mỗi lần nhắn gọi là một lần hiểm nguy. Họ phải đóng vai người giặt áo, rửa rau, gánh nước, mò cua, bắt ốc… để che mắt cảnh sát, mật vụ.
Cảm nhận sâu sắc nỗi đau chia cắt ấy, năm 1957, trong một buổi chiều nhớ nhà ở Vĩnh Linh, nhạc sĩ Hoàng Hiệp đã viết lên ca khúc “Câu hò bên bờ Hiền Lương”. Lời hát là nỗi khắc khoải chờ mong của người mẹ miền Nam dành cho người con ra Bắc tập kết; là nỗi nhớ thương da diết, thủy chung của đôi lứa yêu nhau, của những cặp vợ chồng: “Thuyền ơi, thuyền ơi có nhớ bến chăng/ Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”. Và trên hết đó là lời thề sắt son tin tưởng vào cách mạng, tin tưởng vào ngày vui chiến thắng: “Nhắn ai luôn giữ câu nguyền/ Qua cơn bão tố vững bền lòng son”. Những ca từ mộc mạc ấy đã lay động hàng triệu trái tim, cổ vũ cho khát vọng đoàn viên, khát vọng thống nhất đất nước.
Biểu tượng cho khát vọng thống nhất non sông
Không chỉ là chứng nhân của nỗi đau chia cắt, cầu Hiền Lương còn là biểu tượng sáng ngời của ý chí và khát vọng thống nhất non sông của dân tộc Việt Nam. Suốt hơn 20 năm, cây cầu nhỏ bé bắc qua dòng Bến Hải đã trở thành mặt trận đặc biệt - nơi diễn ra cuộc chiến không tiếng súng nhưng đầy cam go, giữa một bên là âm mưu chia cắt đất nước và một bên là quyết tâm sắt đá giành lại hòa bình, đoàn viên.
Những năm 1954-1964, Hiền Lương được chia là khu vực phi quân sự, nhưng thực tế, đây lại là tâm điểm của cuộc chiến không kém phần khốc liệt về lý trí, tâm lý, tư tưởng và cả sinh mạng. Cuộc đọ sức không tiếng súng với những hình thức đấu tranh đặc thù, có một không hai, như đấu màu sơn, đấu cờ, đấu loa, nhưng rồi phần thắng luôn thuộc về chính nghĩa.
Giữa cầu Hiền Lương có một vạch trắng kẻ ngang được dùng làm ranh giới. Để tạo nên hình ảnh chia cắt đất nước ta, chính quyền Sài Gòn chủ động sơn một nửa cầu phía Nam thành màu xanh, nhưng với ý nguyện “thống nhất non sông” ta liền sơn màu xanh cho nửa cầu còn lại. Sau chúng chuyển sang màu nâu, ta cũng sơn lại màu nâu. Cứ như thế, cầu Hiền Lương luôn thay đổi màu sắc, hễ chúng sơn khác đi để tạo ra hai màu đối lập, thì ngay lập tức ta lại sơn lại cho giống, như khát vọng thống nhất đất nước của toàn dân tộc. Cuối cùng, vào năm 1975, toàn bộ cầu được sơn chung một màu xanh hòa bình.
Một huyền thoại khác phải kể đến là cuộc đấu cờ giữa ta và địch. Theo Hiệp định Genève, các đồn cảnh sát giới tuyến phải treo cờ. Địch khiêu khích ta bằng cách dựng một cột cờ 15 m, ta đáp lại bằng một cột cờ 18 m. Và cứ thế, cuộc đấu cờ diễn ra quyết liệt. Năm 1962, khi Ngô Đình Diệm cho dựng một trụ cờ bằng xi măng cốt thép cao 30 m tại bờ Nam, thì quân dân ta xây cột cờ mới cao 38,6 m với lá cờ rộng 134 m2, nặng 15 kg tại bờ Bắc. Đây chính là cột cờ cao nhất khu vực giới tuyến.
Cũng từ đó, suốt những năm tranh đấu, mọi tầm ngắm của đạn pháo địch đều hướng về ngọn cờ ở bờ Bắc sông Bến Hải. Để cờ Tổ quốc tung bay kiêu hãnh trên kỳ đài Hiền Lương, quân và dân ta đã đánh trên 300 trận lớn nhỏ với không ít hy sinh. Nhiều tấm gương giữ cờ khiến ai cũng phải cảm phục, như mẹ Nguyễn Thị Diệm, dù tuổi già sức yếu nhưng không đi sơ tán, kiên quyết ở lại vá cờ. Những chiến sĩ công an vũ trang Vĩnh Linh đã siết chặt tay nhau thề: “Ngày nào tim còn đập thì lá cờ còn tung bay”. Và đúng như thế, lá cờ đỏ sao vàng chưa bao giờ vắng bóng trên cột cờ Hiền Lương cũng như không gì có thể dập tắt được ngọn lửa khát vọng thống nhất dân tộc của người Việt Nam.
Ngoài đấu cờ, còn có cuộc chiến âm thanh - đấu loa giữa ta và địch. Để vạch trần âm mưu xâm lược đất nước ta của chính quyền Mỹ-ngụy và động viên, tiếp sức cho Nhân dân miền Nam vững bước đấu tranh, chúng ta đã xây dựng một hệ thống âm thanh quy mô lớn và hiện đại. Tổng công suất giàn loa trên bờ Bắc Hiền Lương là 180.000 W, riêng khu vực cầu Hiền Lương 7.000 W. Cùng với những chương trình phát thanh phong phú, đa dạng, hệ thống loa này đã thực sự lấn át giàn loa bờ Nam của chính quyền Mỹ-ngụy. Hệ thống loa phát thanh đã góp phần giữ trọn niềm tin của Nhân dân vào Đảng và Bác Hồ, vào một ngày thống nhất đất nước.
Cuộc chiến vẫn tiếp diễn quyết liệt giữa đôi bờ Bến Hải. Cho đến năm 1967, nhằm chặn dòng chi viện từ miền Bắc cho chiến trường miền Nam, chính quyền miền nam cũ đã ném bom đánh sập cầu Hiền Lương. Kể từ đó cho tới khi Quảng Trị được giải phóng (năm 1972), không có bất cứ một cây cầu nào bắc qua dòng Bến Hải nữa.
Năm 1974, để đảm bảo giao thông qua sông Bến Hải, tại vị trí cầu Hiền Lương cũ, một cây cầu bê-tông cốt thép mới đã được xây dựng, dài 186m, rộng 9m, có hành lang dành cho người đi bộ. Tuy nhiên, sau nhiều năm sử dụng, cây cầu này dần xuống cấp.
Năm 1996, Bộ Giao thông vận tải đã xây dựng thêm một chiếc cầu mới nằm về phía tây cầu cũ với dài 230m, rộng 11,5m. Cầu mới được thi công bằng công nghệ đúc đẩy - phương pháp hiện đại nhất lúc đó và lần đầu tiên được áp dụng tại Việt Nam.
Đến năm 2001, cầu Hiền Lương cũ được phục chế lại nguyên bản theo thiết kế trước đây, dài 182,97m, gồm 7 nhịp, mặt lát gỗ lim có đánh số thứ tự từng tấm ván. Tháng 3/2014, cầu Hiền Lương được phục chế nguyên trạng, như từng tồn tại trong lịch sử.
Cùng với cây cầu lịch sử, Khu di tích cầu Hiền Lương cũng đã được phục hồi, tôn tạo với cổng chào, nhà liên hiệp, đồn công an giới tuyến, tháp canh... Phía bên kia cầu là tượng đài "Khát vọng thống nhất" đặt ở bờ Nam sông Bến Hải, gồm hình tượng người mẹ miền Nam và em bé mang nỗi chờ mong khắc khoải, mắt hướng về phía miền Bắc. Phía sau là hình ảnh những tàu lá dừa của miền Nam thân yêu vút lên từ trong lòng đất biểu trưng cho khát vọng thống nhất non sông.
Viết tiếp khát vọng thống nhất bằng khát vọng đổi mới và phát triển
Kỳ đài ở khu Di tích quốc gia đặc biệt Đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải trong Lễ thượng cờ “Thống nhất non sông”, sáng 30/4/2024. Ảnh tư liệu: Nguyễn Linh/TTXVN
Ngày nay, bên dòng sông Bến Hải hiền hòa, cách không xa cây cầu Hiền Lương lịch sử là "Khu di tích đôi bờ Hiền Lương" đã được xếp hạng là Di tích cấp quốc gia. Đôi loa công suất lớn được sử dụng trong cuộc đọ loa với địch, nay nằm đây như một "chứng nhân" của lịch sử, góp "tiếng nói" của mình trong hành trình “con đường di sản miền Trung”, đưa du khách trong và ngoài nước hoài niệm về một thời hoa lửa đau thương mà kiêu hùng.
Di tích cầu Hiền Lương không chỉ là một điểm đến lịch sử mà còn là "trường học" sống động, góp phần giáo dục lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và ý chí kiên cường cho thế hệ trẻ. Những câu chuyện về cuộc đấu tranh bền bỉ bên cây cầu lịch sử, về lá cờ Tổ quốc tung bay trên đỉnh kỳ đài bất chấp bom đạn, hay về những người dân đôi bờ vẫn tìm cách nhắn gửi yêu thương dù bị chia cắt… đều trở thành bài học sinh động, giúp thế hệ trẻ hiểu rõ hơn về quá khứ hào hùng của dân tộc.
Hàng năm, nhiều đoàn học sinh, sinh viên từ khắp nơi trên cả nước đến thăm Khu di tích cầu Hiền Lương, tận mắt nhìn thấy cây cầu lịch sử, cột cờ hiên ngang và những chứng tích chiến tranh để cảm nhận sâu sắc hơn về sự hy sinh của ông cha. Đây chính là cơ hội để thế hệ trẻ nuôi dưỡng lòng tự hào dân tộc, từ đó ý thức rõ hơn trách nhiệm của mình trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Từ những bài học lịch sử ấy, tinh thần quật cường của dân tộc tiếp tục trở thành động lực cho Quảng Trị hôm nay vươn lên mạnh mẽ. Cùng với sự phát triển của đất nước, cuộc sống ở đôi bờ Hiền Lương cũng từng ngày thay da đổi thịt. Dọc bờ sông Bến Hải là những vùng thâm canh cây lúa, cây nông nghiệp chất lượng cao. Ngược lên vùng gò đồi phía thượng nguồn Bến Hải là những nông trường cao su, hồ tiêu xanh mướt. Vĩnh Linh, Bến Hải hôm nay đang tiếp tục viết những trang sử mới, trong một tâm thế mới, khi những cây cầu được sinh ra đúng với bản chất của chúng: không phải để chia cắt, mà để nối những bờ vui, kéo dài hạnh phúc và thống nhất một dải non sông Việt Nam đẹp tươi, hòa bình.
Nếu như ngày xưa, khát vọng lớn nhất là độc lập, thống nhất non sông, thì ngày nay, khát vọng ấy đã chuyển thành ý chí xây dựng một Quảng Trị giàu mạnh, vững bước trên con đường phát triển. Giờ đây, chính quyền và Nhân dân Quảng Trị đang hiện thực hóa khát vọng vươn lên, biến mảnh đất anh hùng thành một vùng đất thịnh vượng. Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân Quảng Trị đang phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Trị lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2020-2025, với mục tiêu đưa Quảng Trị trở thành tỉnh có trình độ phát triển thuộc nhóm trung bình cao vào năm 2025 và nhóm tỉnh khá của cả nước vào năm 2030.
Nửa thế kỷ đã trôi qua từ ngày đôi bờ Bắc - Nam sum họp, cầu Hiền Lương vẫn vững vàng như một biểu tượng thiêng liêng của hòa bình và thống nhất. Những vết thương chiến tranh đã lùi xa, nhưng ký ức về một thời kỳ lịch sử đau thương mà hào hùng vẫn còn đó, nhắc nhở thế hệ hôm nay và mai sau về giá trị của độc lập, tự do. Hôm nay, bên dòng Bến Hải hiền hòa, Quảng Trị đang vươn mình phát triển, hiện thực hóa khát vọng xây dựng quê hương giàu mạnh, viết tiếp trang sử mới cho vùng đất anh hùng.
Minh Duyên