Chặng đường 130 năm đấu tranh, xây dựng và phát triển. Phần 4: Thời kỳ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và thực hiện công cuộc đổi mới

Chặng đường 130 năm đấu tranh, xây dựng và phát triển. Phần 4: Thời kỳ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và thực hiện công cuộc đổi mới
3 giờ trướcBài gốc
Sơn La thực hiện nhiệm vụ khôi phục phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh (1975 - 1985)
Thực hiện nhiệm vụ khôi phục phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh (1975 - 1985). Năm 1975, sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cách mạng Việt Nam bước sang thời kỳ mới - thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Tổng Bí thư Trường Chinh dự và phát biểu tại Đại hội Đảng bộ tỉnh khóa VII (năm 1983).
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (1976) và lần thứ V (1980), Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Sơn La lần thứ IV (năm 1976), lần thứ V (năm 1977), lần thứ VI (năm 1980) và lần thứ VII (1983), trong 10 năm (1976 - 1985) với sự nỗ lực phấn đấu, tỉnh Sơn La đã giành được những thành tựu quan trọng. Để phù hợp với tình hình, phát huy hiệu quả trong công tác quản lý, sau khi Khu Tây Bắc giải thể và hai huyện Phù Yên, Bắc Yên sáp nhập vào tỉnh Sơn La, tỉnh đã tiến hành thành lập, giải thể, sáp nhập, điều chỉnh địa giới hành chính, đổi tên gọi một số xã, phường, thị trấn. Đồng thời, gắn với thực hiện chủ trương tổ chức lại sản xuất theo hướng mở rộng sản xuất, công tác quy hoạch cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội trên phạm vi toàn tỉnh, từng huyện được điều chỉnh bổ sung nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng kinh tế - xã hội ở từng địa bàn, từng vùng. Với nhiều biện pháp đồng bộ, Sơn La đạt tốc độ phát triển khá nhanh trên nhiều lĩnh vực. Sản xuất nông nghiệp đã có bước tiến bộ đáng kể về thâm canh, tăng vụ, bước đầu phá thế độc canh và chuyển biến theo hướng toàn diện. Năm 1985 so với 1975, sản lượng lương thực quy ra thóc tăng gần 5 vạn tấn, đàn trâu bò tăng trên 5,2 vạn con, diện tích cây công nghiệp tăng gấp 2 lần, tăng sản phẩm xã hội trên 34 lần, trong đó nông nghiệp tăng trên 53 lần và công nghiệp tăng trên 10 lần, thu ngân sách từ nguồn địa phương tăng trên 26 lần, hình thành 2 vùng sản xuất tập trung Mộc Châu và Mai Sơn.
Sự nghiệp văn hóa, giáo dục và đào tạo, y tế ngày càng được mở rộng, phát triển nhanh. Công tác xây dựng Đảng được chú trọng, tất cả các cơ quan, đơn vị, xí nghiệp, trường học.. đều có đảng bộ hoặc chi bộ, nhiều bản có chi bộ, tổ đảng, đảng viên. Công tác an ninh, đảm bảo quốc phòng được chú trọng, bảo vệ vững chắc sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Trong 10 năm, (1976 -1985) Sơn La cũng như cả nước trải qua thời kỳ mô hình quản lý cũ, tập trung quan liêu, bao cấp nặng nề. Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng những thành quả phấn đấu đạt được trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh của Đảng bộ, quân và nhân dân các dân tộc là rất quan trọng, tạo nền tảng vững chắc để Sơn La bước vào thời kỳ mới, thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện.
Sơn La 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới (từ 1986 đến nay)
Từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX, từ thực tế Việt Nam và bối cảnh quốc tế, Đảng ta đã nhận thức ra và công khai vạch rõ những sai lầm, khuyết điểm và đề ra đường lối đổi mới trên một số lĩnh vực. Đánh dấu sự mở đầu công cuộc đổi mới toàn diện từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng vào năm 1986. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII đến Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XIII các Nghị quyết của Trung ương Đảng tiếp tục phát triển sâu sắc hơn, toàn diện hơn đường lối đổi mới, phù hợp với xu thế phát triển, đặc điểm tình hình thực tế đất nước.
Sơn La những năm đầu bước vào thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo gặp không ít khó khăn, thách thức. Ảnh hưởng cuộc tổng điều chỉnh giá - lương - tiền những tháng cuối năm 1985, đời sống kinh tế - xã hội gặp nhiều khó khăn. Vào thời điểm đầu năm 1986, Sơn La có khoảng 15 vạn dân thiếu đói; gần 1 vạn lao động trong tỉnh chưa có việc làm ổn định. Công cuộc di chuyển dân tái định cư vùng lòng hồ sông Đà để xây dựng nhà máy thủy điện Hòa Bình và nhà máy thủy điện Sơn La sau này gắn với quy hoạch sắp xếp dân cư là nhiệm vụ cách mạng to lớn đối với tỉnh.
Tổng Bí thư Đỗ Mười thăm và làm việc tại Sơn La, tháng 11/1990.
Tuy nhiên vượt lên khó khăn, thách thức, nhìn lại gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, tỉnh Sơn La đã đạt được những thành tựu to lớn: Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, đúng hướng và phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế của tỉnh, trong đó: Sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, gắn với ứng dụng công nghệ cao; công nghiệp phát triển theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp chế biến, tăng tỷ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm; dịch vụ chú trọng phát triển các ngành có lợi thế cạnh tranh. Sơn La đã trở thành tỉnh phát triển khá trong vùng trung du và miền núi phía Bắc; trên những hướng lớn tỉnh đã mở được thế phát triển đi lên; kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển ngày càng năng động và hiệu quả; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt; bình đẳng giữa các dân tộc về quyền lợi và nghĩa vụ, về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và cơ hội phát triển ngày càng được thực hiện tốt; khối đoàn kết các dân tộc không ngừng được củng cố; quốc phòng, an ninh được củng cố vững chắc, tạo tiền đề quan trọng để tỉnh tiếp tục phát triển nhanh, bền vững hơn trong giai đoạn tiếp theo. Các thành phần kinh tế đều có bước phát triển. Kinh tế nhà nước giữ vị trí quan trọng chủ đạo trong phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, đóng góp lớn vào thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; doanh nghiệp nhà nước tiếp tục được sắp xếp, sau chuyển đổi hoạt động sản xuất kinh doanh đạt kết quả tích cực; kinh tế tập thể và hợp tác xã tiếp tục phát triển, góp phần thúc đẩy kinh tế hộ, tạo liên kết hợp tác giữa các thành viên, mở rộng sản xuất kinh doanh, phát triển ngành nghề; kinh tế tư nhân phát triển mạnh trong lĩnh vực du lịch, dịch vụ, xây dựng, khai khoáng và đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, chế biến nông lâm sản; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào khai khoáng, chế biến nông sản góp phần tạo việc làm, tăng thu ngân sách, tạo môi trường cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Vùng cây ăn quả tại xã Mai Sơn.
Vùng chuyên canh cà phê phường Chiềng Cơi.
Khách hàng xem sản phẩm OCOP tại gian hàng nông sản của HTX Tây Bắc, xã Yên Châu.
Sản xuất nông, lâm nghiệp phát triển theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, gắn với ứng dụng công nghệ cao gắn với thị trường, nhất là các thị trường cao cấp, nâng cao giá trị và hiệu quả kinh tế, một số sản phẩm đã có thương hiệu trên thị trường trong nước và nước ngoài,như các sản phẩm từ sữa, chè, cà phê, nhãn, xoài.... Trong nhiệm kỳ 2020 - 2025 Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã ban hành nhiều nghị quyết, kết luận quan trọng về triển khai thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp với cách làm và hướng đi phù hợp. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản đến nay tiếp tục phát triển và đạt mức tăng trưởng bình quân 5%/năm. Phát triển cây ăn quả, cây công nghiệp theo quan điểm đầu tư thâm canh, ổn định diện tích hiện có, cải tạo vườn cây già cỗi bằng những giống mới có năng suất, chất lượng cao. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến, thúc đẩy cơ giới hóa, tự động hóa và chuyển đổi số trong sản xuất nông nghiệp góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị và sức cạnh tranh của sản phẩm; Phát triển các vùng nguyên liệu nông sản tập trung gắn với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ (dự kiến hết năm 2025 toàn tỉnh có 10 vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao); tăng cường cấp mã số vùng trồng, phát triển các vùng nguyên liệu gắn với các nhà máy chế biến nông sản, thực phẩm xuất khẩu, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân (toàn tỉnh đã cấp 216 mã số vùng trồng, diện tích 3.158 ha). Đến nay, toàn tỉnh có 204 sản phẩm OCOP, tăng 122 sản phẩm so với năm 2020, gồm 1 sản phẩm 5 sao, 62 sản phẩm 4 sao và 141 sản phẩm 3 sao.
Nuôi cá lồng trên lòng hồ tại xã Quỳnh Nhai.
Mô hình nuôi lợn theo quy mô trang trại.
Triển khai chương trình phát triển chăn nuôi đại gia súc trọng tâm là phát triển các trang trại chăn nuôi tập trung gắn với vệ tinh là các hộ gia đình nhằm khai thác và phát huy tiềm năng lợi thế so sánh của tỉnh. Thực hiện ứng dụng chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật trong nuôi trồng thủy sản (Nhiều mô hình nuôi các loài thủy đặc sản có hiệu quả kinh tế cao được nhân rộng như mô hình nuôi cá bỗng, cá chiên, cá lăng, trắm đen, ba ba....). Phát triển kinh tế lâm nghiệp theo hướng bền vững, toàn diện cả về kinh tế, xã hội và môi trường; vừa tăng độ che phủ rừng, vừa nâng cao chất lượng, giá trị kinh tế của rừng, tạo sản phẩm hàng hóa và việc làm, tăng thu nhập cho người dân từ khai thác hợp pháp giá trị kinh tế rừng; phấn đấu tỷ lệ độ che phủ rừng đến hết năm 2025 đạt 48,5%.
Khánh thành tuyến đường Chiềng San, Chiềng Muôn (cũ)
Hệ thống giao thông được kiên cố hóa.
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới được triển khai sâu rộng trên địa bàn tỉnh. Xây dựng nông thôn mới có thể coi như một cuộc cách mạng đổi mới với nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Dự ước đến năm 2025, toàn tỉnh có 01 huyện đạt chuẩn nông thôn mới, 83 xã đạt chuẩn nông thôn mới, 16 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, 01 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu... Diện mạo nông thôn có nhiều đổi mới, chất lượng cuộc sống và sinh hoạt của người dân nông thôn liên tục được cải thiện. Ước thực hiện năm 2025, tỷ lệ dân số nông thôn được cung cấp nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 100%, tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước sạch đạt 44%.
Dây chuyền chế biến tại Trung tâm Chế biến rau quả Doveco Sơn La.
Sản xuất công nghiệp tiếp tục có bước phát triển tích cực, nhất là công nghiệp chế biến nông sản, công nghiệp sản xuất điện từ nguồn năng lượng tái tạo. Cơ cấu sản xuất công nghiệp dịch chuyển theo hướng chuyên môn hóa, hiện đại hóa, từ sản phẩm thô sang chế biến sâu tạo giá trị tăng cao; đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo, giảm tỷ trọng công nghiệp khai khoáng nhằm cơ cấu lại ngành công nghiệp hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Công nghiệp sản xuất điện tiếp tục được quan tâm và khẳng định được vai trò trọng yếu, đáp ứng nhu cầu điện cho sản xuất, sinh hoạt trong tỉnh và cung ứng cho lưới điện quốc gia. Thực hiện rà soát, xây dựng phương án phát triển các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn để bổ sung vào quy hoạch. Huy động các nguồn lực triển khai thực hiện cấp điện an toàn, ước đến năm 2025, tỷ lệ hộ sử dụng điện sinh hoạt an toàn trên địa bàn tỉnh ước đạt 99%..
Gian hàng trưng bày nông sản của tỉnh Sơn La tại tỉnh Thanh Hóa.
Phát triển thương mại, dịch vụ trên cơ sở phát huy tiềm năng, lợi thế của tỉnh: cơ cấu lại các ngành dịch vụ theo hướng nâng cao chất lượng và phát triển đa dạng các sản phẩm, nhất là các sản phẩm có thế mạnh và lợi thế so sánh, có giá trị cao. Mạng lưới hạ tầng thương mại được mở rộng, đa dạng các kênh phân phối tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp trao đổi hàng hóa, đảm bảo lưu thông thông suốt và ổn định thị trường. Công tác tiêu thụ nông sản được xác định là nhiệm vụ trọng tâm. Hỗ trợ xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm nông nghiệp. Đến nay toàn tỉnh có 35 sản phẩm nông sản được đưa lên sàn thương mại điện tử; 17 sản phẩm nông sản được xuất khẩu vào thị trường 21 nước và vùng lãnh thổ, từng bước tạo dựng được uy tín, thương hiệu trên thị trường trong nước và nước ngoài. Giá trị hàng hóa tham gia xuất khẩu năm 2025 ước đạt 215 triệu USD.
Phối cảnh Nhà máy sản xuất ngũ cốc ăn liền và hoa quả sấy VFI tại khu Công nghiệp Mai Sơn
Công tác thu hút đầu tư được triển khai, thực hiện đồng bộ và đạt được những kết quả tích cực: ưu tiên tập trung nguồn lực cho các lĩnh vực then chốt, các công trình, dự án trọng điểm, liên kết vùng, có sức lan tỏa, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội. Giai đoạn 2021-2025, tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 108.680 tỷ đồng, bình quân đạt 21.736 tỷ đồng/năm. Tỉnh đã hoàn thành và đưa vào sử dụng tuyến tránh QL.6 (đoạn qua thành phố Sơn La); đường nối QL.37, huyện Bắc Yên với QL.279D, huyện Mường La hoàn thành mục tiêu 100% đường đến trung tâm xã được cứng hóa; hạ tầng đô thị, nông thôn, hệ thống giao thông, điện, nước sinh hoạt, thủy lợi, thông tin, truyền thông, trường học, bệnh viện, trạm y tế, các thiết chế văn hóa, thể thao,.. được quan tâm đầu tư. Thu hút được một số tập đoàn, doanh nghiệp có năng lực, uy tín khảo sát, nghiên cứu, đầu tư các nhà máy chế biến nông sản trên địa bàn tỉnh. Số lượng các dự án công nghiệp, dịch vụ quy mô lớn, có tác động lan tỏa đến phát triển kinh tế - xã hội địa phương ngày càng tăng lên. Một số dự án tiêu biểu như: Trung tâm chế biến rau quả Doveco Sơn La; Dự án điểm du lịch Mộc Châu Island; Tổ hợp Trang trại sinh thái bò sữa Công nghệ cao Mộc Châu; Nhà máy chế biến sữa công nghệ cao. Các dự án góp phần phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng, tăng thu nhập cho người dân, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Tiếp tục phát huy các tiềm năng, lợi thế của các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế: Phát huy hiệu quả các lợi thế về điều kiện đất đai, khí hậu, hình thành các vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, với năng suất, chất lượng, đáp ứng yêu cầu tiêu dùng của thị trường (đặc biệt tại cao nguyên Nà Sản và cao nguyên Mộc Châu). Công tác thu hút đầu tư thực hiện đồng bộ gắn với thực hiện quy hoạch khu du lịch Quốc gia Mộc Châu , hình thành các sản phẩm du lịch chất lượng cao có thương hiệu, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc tạo điểm nhấn, động lực trong phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế mặt nước vùng hồ thủy điện Sơn La và Hòa Bình để phát triển nuôi trồng thủy sản đặc sản có giá trị cao phát triển nuôi trồng thủy sản đặc sản có giá trị cao. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào phát triển nông, lâm, thủy sản gắn với bảo vệ và phát triển rừng, thích ứng với biến đổi khí hậu. Nâng cao hiệu quả quản lý quy hoạch, xây dựng, vận hành, khai thác và phát triển thủy điện bền vững trên cơ sở đảm bảo hài hòa giữa yêu cầu đảm bảo an ninh năng lượng với việc cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp. Hình thành các điểm du lịch đặc trưng của vùng vùng kinh tế dọc sông Đà được đông đảo du khách trong nước và quốc tế biết đến.Vùng cao biên giới có địa bàn giữ vị trí trọng yếu trong đảm bảo ổn định quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội kết hợp chặt chẽ với quốc phòng, an ninh. Quan tâm đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu về giao thông, thủy lợi, giáo dục, y tế;... Tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa; hình thành vùng trồng cây ứng dụng công nghệ cao.
Cán bộ, chiến sỹ Đồn Biên phòng Mường Lạn tuần tra, kiểm soát khu vực biên giới.
Vùng cao, biên giới: Địa bàn giữ vị trí trọng yếu trong đảm bảo ổn định quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội kết hợp chặt chẽ với quốc phòng, an ninh. Quan tâm đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu về giao thông, thủy lợi, giáo dục, y tế;... Tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa; hình thành vùng trồng cây ứng dụng công nghệ cao (sản phẩm nhãn); phát triển chăn nuôi đại gia súc tại các xã khu vực III và bản đặc biệt khó khăn; phát triển sản xuất lâm nghiệp; trồng cây dược liệu gắn với bảo vệ rừng đầu nguồn. Khu vực biên giới là nơi giao thương, giao lưu, hợp tác với các tỉnh nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, thương mại, dịch vụ quốc tế ngày càng được đẩy mạnh, góp phần khai thác tiềm năng, củng cố quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt - Lào, phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định biên giới, bảo đảm quốc phòng, an ninh chính trị trong tình hình mới. Các thành phần kinh tế ngày càng phát triển, góp phần quan trọng trong việc huy động nguồn lực cho phát triển kinh tế. Chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài được nâng cao góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế địa phương, thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế.
Cân đối ngân sách nhà nước được đảm bảo; hoạt động tài chính, ngân hàng ổn định đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế: Kỷ cương, kỷ luật tài chính được siết chặt, triệt để tiết kiệm chi thường xuyên để tăng chi đầu tư phát triển; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng được chú trọng. Trong 5 năm (2020 - 2025), tổng thu ngân sách nhà nước của địa phương ước đạt 102.665 tỷ đồng, bình quân đạt 20.533 tỷ đồng/năm (trong đó, tổng thu ngân sách trên địa bàn đạt 21.803 tỷ đồng, bình quân đạt 4.360 tỷ đồng/năm); tổng chi ngân sách địa phương ước đạt 95.965 tỷ đồng, đáp ứng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh (đặc biệt là dịch Covid-19), thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội. Hoạt động ngân hàng, tín dụng an toàn, ổn định, đáp ứng đầy đủ, kịp thời vốn cho sản xuất, kinh doanh; mạng lưới hoạt động tín dụng được mở rộng tăng khả năng tiếp cận tín dụng của các thành phần kinh tế. Toàn tỉnh có 22 tổ chức tín dụng, chi nhánh tổ chức tín dụng, với 51 phòng giao dịch, 285 điểm giao dịch. Đẩy mạnh chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng, thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt góp phần nâng cao tính minh bạch và hiệu quả trong giao dịch tài chính.
Công tác quản lý, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu được quan tâm và đạt được nhiều kết quả quan trọng:Hoàn thành tích hợp phương án sử dụng đất, khoáng sản, tài nguyên nước vào quy hoạch tỉnh; phê duyệt Quy hoạch sử dụng đất thời kỳ 2021-2030; từng bước xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai; tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong công tác giải phóng mặt bằng tạo tiền đề thu hút đầu tư và phát triển đô thị. Nâng cao hiệu quả sử dụng đất, quản lý chặt chẽ đất công, đất có nguồn gốc từ các nông, lâm trường. Giải quyết các tồn đọng trong cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất lần đầu, đảm bảo quyền lợi của người dân. Thực hiện đô thị hóa, phát triển nông thôn gắn với hạ tầng bảo vệ môi trường (Ước đến hết năm 2025, tỷ lệ chất thải rắn đô thị được thu gom đạt 92,5%, tỷ lệ chất thải rắn đô thị được xử lý đạt 92,5%, tỷ lệ chất thải rắn nông thôn được thu gom đạt 88%). Chú trọng thanh tra, kiểm tra việc quản lý, sử dụng tài nguyên; kiên quyết chống tham nhũng, trục lợi và gây lãng phí, thất thoát sử dụng tài nguyên. Kịp thời huy động nguồn lực để khắc phục hậu quả thiên tai, hỗ trợ cho người dân bị ảnh hưởng sớm ổn định đời sống và sản xuất. Năng lực, chất lượng dự báo, cảnh báo về diễn biến thời tiết khí hậu, thủy văn phục vụ cho công tác phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn được nâng lên. Quan trắc môi trường được tăng cường; Chủ động phòng ngừa, kiểm soát, không để phát sinh các sự cố ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; kết hợp các giải pháp phát triển kinh tế đảm bảo hài hòa với thiên nhiên và bảo vệ môi trường, không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế.
Công tác sắp xếp, ổn định dân cư các xã, bản đặc biệt khó khăn, vùng tái định cư các công trình thủy điện được quan tâm. Đặc biệt, Sơn La đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ hai cuộc đại di dân tái định cư để phục vụ xây dựng hai công trình thế kỷ: thủy điện Hòa Bình và thủy điện Sơn La. Riêng thủy điện Sơn La, đã di chuyển 12.584 hộ với 54.282 nhân khẩu của ba huyện Mường La, Quỳnh Nhai, Thuận Châu đến nơi ở mới. Vùng tái định cư các công trình thủy điện cơ bản được đầu tư đồng bộ, khoa học và công tác khuyến nông được triển khai tích cực; Tăng cường các nguồn vốn để đầu tư kết cấu hạ tầng, ổn định sản xuất, định canh, định cư, giảm nghèo, tạo chuyển biến mới về nhận thức và sản xuất của nhân dân vùng tái định cư. Đời sống và sản xuất của nhân dân vùng tái định cư từng bước ổn định, được cải thiện, nội bộ đoàn kết thống nhất, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Phát động Tuấn lễ hưởng ứng học tập suốt đời tại xã Mai Sơn.
Lĩnh vực giáo dục, đào tạo có nhiều chuyển biến tích cực, quy mô mạng lưới, trường lớp mầm non, phổ thông, giáo dục thường xuyên, giáo dục hòa nhập được rà soát sắp xếp, củng cố và phát triển, quan tâm đầu tư theo hướng đồng bộ, chuẩn hóa và từng bước hiện đại hóa; đến năm 2025 tỷ lệ trường mầm non, phổ thông đạt chuẩn quốc gia đạt tỷ lệ 72,48% (432/596 trường). Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo các cấp, nhất là bậc Trung học phổ thông và giáo dục nghề nghiệp. Thu hút, phát triển nguồn nhân lực cho các ngành kinh tế; nâng cao chất lượng các trường cao đẳng, đại học; quan tâm công tác đào tạo, phát triển đội ngũ cán bộ các cấp. Xây dựng trung tâm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại thành phố Sơn La để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao. Thành phố Sơn La được ghi danh vào Mạng lưới thành phố học tập toàn cầu của UNESCO. Chất lượng giáo dục và đào tạo được nâng lên, tỷ lệ tốt nghiệp THPT tăng liên tục qua các năm, có 01 học sinh được tham dự chung kết cuộc thi Đường lên đỉnh Olympia năm 2022. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng cán bộ, công chức, viên chức nhất là cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số được quan tâm. Tập trung phát triển nhân lực ngành khoa học, công nghệ; chú trọng công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn (chủ yếu là người dân tộc thiểu số), gắn kết với doanh nghiệp để tìm kiếm và giới thiệu việc làm cho sinh viên sau tốt nghiệp.
Cán bộ Trạm Y tế xã Tông Cọ tuyên truyền chế độ dinh dưỡng cho trẻ em.
Sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân được quan tâm; mạng lưới cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế được đầu tư nâng cấp. Quy mô, năng lực, chất lượng khám, chữa bệnh, phòng, chống dịch, Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe Nhân dân được tăng cường (nhất là phòng, chống dịch Covid-19). Ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành y tế được đấy mạnh; tăng cường chẩn đoán, điều trị từ xa, gắn với đào tạo, chuyển giao kỹ thuật, nhiều kỹ thuật trước đây chỉ thực hiện được tại các bệnh viện tuyến cuối nay đã được thực hiện thường quy tại bệnh viện đa khoa tỉnh và một số bệnh viện đa khoa tuyến huyện (như: can thiệp tim mạch, phẫu thuật nội soi,..). Chú trọng công tác đào tạo để nâng cao trình độ chuyên môn, nâng cao y đức cho cán bộ y tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh. Mạng lưới cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế tiếp tục được đầu tư nâng cấp, từng bước hiện đại. Thực hiện tốt công tác xã hội hóa về y tế; Cơ sở hành nghề y dược tư nhân phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng góp phần đáp ứng tốt hơn nhu cầu chăm sóc sức khỏe của Nhân dân.
Văn hóa, thể dục - thể thao tiếp tục phát triển. Truyền thống và bản sắc văn hóa tốt đẹp của đồng bào các dân tộc được gìn giữ và phát huy; nhiều lễ hội truyền thống được phục dựng gắn với phát triển du lịch; phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” phát triển cả về bề rộng và chiều sâu; các thiết chế văn hóa, thể thao, sinh hoạt cộng đồng được đầu tư và phát huy hiệu quả tích cực. Đến nay, toàn tỉnh có hơn 3.000 đội văn nghệ quần chúng hoạt động thường xuyên. Mức hưởng thụ văn hóa, tinh thần của nhân dân được cải thiện mạnh mẽ. Sự nghiệp thể dục - thể thao tiếp tục phát triển, có những tiến bộ mới; cuộc vận động “toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” phát triển sâu rộng ở mọi địa bàn và đạt kết quả tốt. Các khu di tích lịch sử được quan tâm tôn tạo.Tỉnh đã xây dựng và tổ chức Lễ khánh thành Quảng trường Tây Bắc và Tượng đài Bác Hồ với đồng bào các dân tộc Tây Bắc, là công trình, biểu tượng có ý nghĩa đặc biệt về lịch sử văn hóa và chính trị.
Hiệu quả hoạt động khoa học - công nghệ được nâng cao, cơ chế quản lý được đổi mới. Tăng cường quan tâm công tác nghiên cứu khoa học về lý luận và thực tiễn ứng dụng và chuyển giao tiến bộ khoa học vào quản lý, giảng dạy, khám chữa bệnh và sản xuất, ứng dụng công nghệ mới, vật liệu mới, tiết kiệm tài nguyên, góp phầntăng năng suất, chất lượng sản phẩm, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất nông nghiệp, chế biến và bảo quản hàng hóa nông sản. Triển khai thực hiện đề án hỗ trợ xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm chính của tỉnh.
An sinh xã hội được đảm bảo: Từ đầu nhiệm kỳ, đã huy động được 408,192 tỷ đồng (trong đó từ nguồn xã hội hóa 355,071 tỷ đồng) để xóa được 8.665 nhà tạm; Thực hiện Kế hoạch số 01-KH/BCĐ ngày 20/01/2025 của Ban Chỉ đạo triển khai xóa nhà tạm, nhà dột nát trên địa bàn tỉnh Sơn La hoàn thành xong trước ngày 19/5/2025 (Đến ngày 16/4/2025 toàn tỉnh đã hoàn thành 2.206/2.855 nhà (1.913 nhà xây mới; 293 nhà sửa chữa); đang thực hiện xây dựng 485 nhà (423 hộ xây mới; 62 hộ sửa chữa) sẽ được bàn giao và sử dụng trong tháng 4/2025; 164 nhà chưa khởi công xây dựng). Hệ thống thông tin về thị trường lao động có bước phát triển, đã giúp cho các doanh nghiệp và người lao động được tiếp cận thông tin thị trường lao động đầy đủ hơn; mỗi năm chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm, tăng thêm thu nhập cho khoảng trên 20.000 lao động. Công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em được quan tâm triển khai thực hiện đồng bộ, toàn diện, hiệu quả, đa dạng hóa dưới nhiều hình thức. Công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ được các cấp, các ngành quan tâm và đẩy mạnh, góp phần từng bước thay đổi nhận thức trong xã hội.
Triển khai quyết liệt các chương trình mục tiêu quốc gia gắn với xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững: (1) Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 được tập trung chỉ đạo triển khai quyết liệt. Tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm bình quân 4% - 5%/năm; hoàn thành 50% số điểm định canh định cư; giải quyết 80% số hộ di cư không theo quy hoạch và tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất cho hộ nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số có khó khăn về đất sản xuất, đất ở.(2) Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025 được triển khai sâu rộng trên địa bàn tỉnh góp phần cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn; thực hiện xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu. Ước đến năm 2025, tỉnh có thêm 01 huyện đạt chuẩn nông thôn mới (huyện Quỳnh Nhai), 83 xã đạt chuẩn nông thôn mới, 20 xã đạt chuẩn nông thôn nâng cao, 03 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu, đạt 100% mục tiêu Nghị quyết, tiêu chí bình quân đạt 15 tiêu chí/xã. (3) Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo và an sinh xã hội bền vững giai đoạn 2021 - 2025 được triển khai; hướng tới mục tiêu giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững, hạn chế tái nghèo và phát sinh nghèo; hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo vượt lên mức sống tối thiểu, tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã hội cơ bản, nâng cao chất lượng cuộc sống. Phấn đấu tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo giai đoạn 2021-2025 giảm từ 21,66% năm 2021 đến hết năm 2025 còn 8,17% (giảm bình quân trên 3%/năm); dự kiến đến năm 2025, có 04 huyện thoát nghèo trong nhiệm kỳ, vượt mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV đề ra.
Chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước thực hiện tốt. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân các dân tộc được nâng lên. Công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách về tôn giáo, dân tộc phát huy hiệu quả.Giáo Hội phật giáo Việt Nam tỉnh được thành lập, đi vào hoạt động, đang triển khai xây dựng Trung tâm hành chính - văn hóa Phật giáo tỉnh; chấp thuận việcđăng ký thí điểm sinh hoạt tôn giáo theo điểm nhóm đối với đạo Tin Lành ở một số huyện,từng bước hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo theo quy định của pháp luật.
Công tác quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia được tăng cường, giữ vững; trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; hoạt động đối ngoại được củng cố, tăng cường và mở rộng góp phần quan trọng vào ổn định chính trị và phát triển kinh tế - xã hội.
Chủ quyền lãnh thổ, quốc phòng, an ninh được giữ vững; không để xảy ra các tình huống, vấn đề gây đột xuất, bất ngờ. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và thế trận biên phòng toàn dân vững chắc. Thế trận khu vực phòng thủ được quy hoạch từ cơ sở đến tỉnh thành một thế trận thống nhất, vững mạnh toàn diện và có trọng điểm, trên cơ sở thế trận quy hoạch. Đến nay, tỉnh và các huyện, thành phố đã tập trung xây dựng điểm "Căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu phương, khu vực phòng thủ then chốt" để làm hạt nhân vững chắc cho hoạt động của khu vực phòng thủ tỉnh.
Quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, toàn diện, huy động sự tham gia vào cuộc của cả hệ thống chính trị trong xây dựng lực lượng Công an Sơn La thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới quốc gia; xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định, hợp tác và phát triển; thường xuyên tổ chức tuần tra song phương, đơn phương, bảo đảm an ninh biên giới; nắm chắc tình hình đường biên giới, hệ thống cột mốc quốc giới, phát hiện, xử lý, giải quyết kịp thời, hiệu quả các vụ việc xảy ra trên biên giới.
An ninh chính trị ổn định, không để xảy ra bị động, bất ngờ, nhất là các vấn đề liên quan đến hoạt động tuyên truyền, kích động đồng bào dân tộc thiểu số tham gia hoạt động lập “Nhà nước Mông”, phát triển đạo trái pháp luật, di cư tự do, đấu tranh ngăn chặn, làm thất bại âm mưu, hoạt động "Diễn biến hòa bình", "bạo loạn lật đổ" của các thế lực thù địch. Các vụ, việc, hiện tượng, tình hình liên quan đến an ninh chính trị khu vực biên giới Việt - Lào được phối hợp chặt chẽ và có giải pháp phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn kịp thời, hiệu quả.
Thực hiện tốt công tác phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật, nhất là tội phạm ma túy; chủ động các biện pháp phòng ngừa, giải quyết các tình huống phát sinh, bảo vệ an toàn các mục tiêu trọng điểm về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh của tỉnh. Thực hiện tốt chính sách phát triển kinh tế - xã hội, ổn định định canh, định cư, chính sách dân tộc, tôn giáo, góp phần củng cố khối đoàn kết các dân tộc. Công tác phòng, chống cháy nổ và cứu nạn, cứu hộ luôn được quan tâm, coi trọng và thực hiện có hiệu quả.
Công tác đối ngoại được củng cố, tăng cường và mở rộng. Thực hiện và duy trì tốt mối quan hệ hợp tác với các cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài tại Việt Nam; tăng cường mở rộng các hoạt động kinh tế đối ngoại, thu hút các nguồn vốn đầu tư của các nước (FDI, ODA, viện trợ phi chính phủ...). Duy trì mối quan hệ hợp tác hữu nghị với các tỉnh phía Bắc, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của tỉnh biên giới trong công tác quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới. Phối hợp với Bộ Ngoại giao và tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào tổ chức thành công Lễ công bố khai trương cặp cửa khẩu quốc tế Lóng Sập (tỉnh Sơn La) - Pa Háng (tỉnh Hủa Phăn). Đa dạng hóa các nội dung, hình thức hợp tác, tăng cường các hoạt động học tập, trao đổi kinh nghiệm; duy trì mô hình kết nghĩa giữa lực lượng bảo vệ biên giới hai bên và kết nghĩa Bản - Bản hai bên biên giới trong tình hình mới, góp phần xây dựng lòng tin chính trị, củng cố mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam. Xây dựng tuyến biên giới Việt Nam - Lào hòa bình, hữu nghị, ổn định và phát triển toàn diện.
Xây dựng Đảng đạt nhiều kết quả tích cực; bộ máy chính quyền các cấp tiếp tục được kiện toàn, chất lượng hoạt động được nâng lên, pháp chế xã hội chủ nghĩa được tăng cường; phát huy mạnh mẽ vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; khối đoàn kết các dân tộc được củng cố vững chắc.
Đồng chí Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy trao bằng khen cho các tập thể có thành tích xuất sắc trong thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/TU.
Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng, tập trung xây dựng Đảng về đạo đức: Triển khai thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, kết luận của Trung ương Đảng khóa XI; XII; XIII về công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng, củng cố hệ thống chính trị. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác phòng chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí. Ban hành và chỉ đạo triển khai thực hiện nghiêm Quy định số 349-QĐ/TU ngày 17/3/2022 về trách nhiệm và xem xét trách nhiệm đối với người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, tổ chức, đơn vị trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; Chỉ thị số 18-CT/TU ngày 24/3/2022 về nâng cao tinh thần, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Đổi mới nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả, kết hợp chặt chẽ giữa "xây" và "chống" trong đó "xây" là cơ bản, chiến lược; bảo đảm tính đảng, tính khoa học, tính chiến đấu, tính thực tiễn, kịp thời và hiệu quả. Nâng cao chất lượng công tác giáo dục lý luận chính trị, công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; xây dựng và tổ chức triển khai thực hiện "Đề án xây dựng, phát triển Trường Chính trị tỉnh Sơn La đạt chuẩn giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030", góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho tỉnh.
Công tác dự báo, nắm tình hình tư tưởng; xử lý thông tin, định hướng dư luận xã hội được kịp thời, sát thực, đáp ứng tâm tư, tình cảm, ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, thù địch, thông tin xấu, độc được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện. Ban Chỉ đạo 35 các huyện ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc hoạt động có hiệu quả. Tổ chức Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng tỉnh Sơn La năm 2023, 2024, 2025. Công tác tuyên truyền trên các lĩnh vực của cơ quan thông tin đại chúng được đảm bảo đúng định hướng, đấu tranh phòng chống âm mưu hoạt động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa, nâng cao lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đổi mới công tác tuyên truyền, quản lý và định hướng của các cơ quan báo chí; phát huy vai trò của văn học, nghệ thuật trên mặt trận tư tưởng; bảo đảm an ninh tư tưởng đạt nhiều kết quả tích cực. Nội dung học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trở thành việc làm thường xuyên, liên tục của cấp ủy, chính quyền, mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Việchọc tập và làm theo Bác tiếp tục đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả. Xuất hiện nhiều mô hình, điển hình tiêu biểu tạo sức lan tỏa lớn trong xã hội.
Các đồng chí lãnh đạo tỉnh trao quyết định cho Bí thư Đảng ủy các xã, phường.
Lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng Đảng về tổ chức, cán bộ. Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII "Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả". Thực hiện sắp xếp, sáp nhập các cơ quan, đơn vị theo chủ trương, định hướng của Trung ương và tình hình thực tiễn của tỉnh, bảo đảm vận hành thông suốt mô hình chính quyền địa phương 2 cấp.
Công tác nội chính, cải cách tư pháp tiếp tục được quan tâm thực hiện. Công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáongày càng hiệu quả: nắm chắc tình hình, ngăn chặn, vô hiệu hóa âm mưu, hoạt động tuyên truyền lập "Nhà nước Mông", giải quyết các vụ việc phức tạp tranh chấp, khiếu kiện trên địa bàn, không để đột xuất, bất ngờ. Tăng cường lãnh đạo thực hiện có hiệu quả cải cách tư pháp. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các chỉ thị, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, phù hợp với điều kiện thực tiễn của tỉnh. Lãnh đạo, chỉ đạo tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan chức năng của tỉnh và giữa các cơ quan chức năng của tỉnh với các huyện, thành phố trong công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí có nhiều chuyển biến tích cực, bước đầu đạt được kết quả quan trọng: cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu nắm vững, sâu, rộng và thực hiện nghiêm túc các quan điểm, chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Thành lập Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tỉnh theo thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. Hoạt động của Ban Chỉ đạo ngày càng nền nếp, hiệu quả, bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh ủy trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của tỉnh. Chủ động các giải pháp phòng, chống lãng phí. Chỉ đạo thực hiện nghiêm túc công tác quản lý ngân sách; quản lý, sử dụng tài sản công. Định kỳ nghe cho chủ trương sắp xếp, bố trí, sử dụng tài sản công bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả; chỉ đạo việc sử dụng các công trình sau đầu tư hiệu quả.
Công tác dân vận có nhiều đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động, đẩy mạnh việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và các hội quần chúng: đổi mới nội dung, phương thức hoạt động trong công tác dân vận trọng tâm hướng về cơ sở, đa dạng hóa các hình thức vận động, tập hợp Nhân dân, chăm lo đời sống của Nhân dân. Nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây dựng và thực hiện dân chủ ở cơ sở, ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn triển khai thực hiện phong trào thi đua “Dân vận khéo” gắn với phong trào thi đua yêu nước; qua đó tạo được niềm tin, sự đồng thuận cao của Nhân dân, góp phầnthực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh, nhất là trong việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, bảo đảm an sinh xã hội.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội phát huy ngày càng tốt hơn vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc; cùng cấp ủy Đảng, chính quyền chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tham gia xây dựng Đảng, quản lý Nhà nước, quản lý xã hội; thường xuyên phát động và tổ chức các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, kêu gọi, động viên đoàn viên, hội viên và nhân dân tích cực hưởng ứng tham gia thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh... góp phần tích cực vào thành tựu chung của tỉnh.
Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện toàn diện, đạt kết quả tích cực; góp phần phòng ngừa sai phạm trong tổ chức đảng, đảng viên. Thực hiện nghiêm tụcs chế độ Thường trực các cấp ủy định kỳ làm việc với ủy ban kiểm tra, cơ quan Ủy ban Kiểm tra cùng cấp theo Kết luận số 34-KL/TW, ngày 18/4/2022 của Bộ Chính trị về Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2030; Thường trực Tỉnh ủy định kỳ nghe báo cáo và chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; giải quyết kiến nghị của tổ chức đảng cấp dưới; định kỳ sơ kết, tổng kết công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng. Lãnh đạo, chỉ đạo Ủy ban Kiểm tra các cấp thực hiện nghiêm túc công tác kiểm tra, giám sát theo chỉ đạo của Ủy ban Kiểm tra Trung ương về kê khai tài sản, thu nhập đối với đảng viên thuộc diện cấp ủy quản lý; tiến hành thẩm tra, xác minh đối với tài tài sản thu nhập đối với trường hợp giải quyết tố cáo, kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm và theo chỉ đạo của cấp trên.
Quan tâm đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy các cấp đối với hoạt động của hệ thống chính trị, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng phát huy dân chủ, trí tuệ tập thể và phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân trong lãnh đạo, chỉ đạo; phát huy dân chủ, trí tuệ tập thể và phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân trong lãnh đạo, chỉ đạo; thực hiện tốt cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong việc cụ thể hóa trong Quy chế làm việc; tăng cường xây dựng Đảng và củng cố hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; đổi mới phương thức lãnh đạo; nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của các các cấp ủy, tổ chức đảng, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp.
Chú trọng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền trong tình hình mới, đổi mới phong cách và lề lối, tác phong làm việc của chính quyền, đảm bảo khoa học, dân chủ, sâu sát, cụ thể gắn với thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính quyền theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Tăng cường hiệu quả công tác cải cách hành chính và xây dựng chính quyền các cấp đảm bảo nâng cao hiệu quả chỉ đạo, điều hành theo hướng quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm. Công tác xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của tỉnh ngày càng nâng cao. Các lĩnh vực về chuyển đổi số được triển khai khá đồng bộ, đạt kết quả bước đầu quan trọng. Chuyển biến về nhận thức của các cấp, các ngành, cán bộ và Nhân dân về chuyển đổi số; tập trung thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng phục vụ người dân và doanh nghiệp, góp phần quan trọng trong việc hiện đại hóa nền hành chính và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; hỗ trợ, đôn đốc doanh nghiệp công nghệ số trên địa bàn tỉnh tham gia chuyển đổi số trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
(còn nữa)
(TH theo Nguồn của Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy)
Nguồn Sơn La : https://baosonla.org.vn/ky-niem-130-nam-ngay-thanh-lap-tinh-son-la/chang-duong-130-nam-dau-tranh-xay-dung-va-phat-trien-phan-4-thoi-ky-xay-dung-bao-ve-to-quoc-va-thuc-hien-cong-cuoc-doi-moi-ogAy19qHg.html