Chỉ có thể là... mẹ

Chỉ có thể là... mẹ
12 giờ trướcBài gốc
1. Chị Hai tôi, người đã đi qua những trận đói khẳng định: Đói - không chỉ là cảm giác bụng trống rỗng, mà mệt mỏi, kiệt sức. Và như thế, khi đói người ta sẽ không nghĩ gì được nữa. Cái đói làm đầu óc mụ đi, lòng rỗng, tim yếu, mắt hoa. Bụng đâu chỉ lép xẹp đến dính lưng mà đau đớn, cồn cào như có con vật đang cào xé bên trong. Tay chân mềm nhũn, không muốn làm gì, chẳng muốn nói chuyện, không buồn cả nhìn ai. Toàn thân run rẩy, chân lảo đảo, mồ hôi lạnh toát. Chỉ cần đứng dậy - một chút thôi - đã thấy trời đất quay cuồng.
“Vậy sao bảo những năm đói kém, mẹ vẫn làm như một lực điền?”. Câu hỏi khờ của đứa em nhỏ là tôi làm chị Hai chực khóc vì “mủi lòng”. Câu thắc mắc ngây thơ của em nhưng đã trở thành lời nghẹn ngào, chị nói: “Chỉ có một câu trả lời thôi - rất giản dị, nhưng rất đúng. Đó là sức mạnh của tình thương, là bản năng làm mẹ. Chẳng có người mẹ nào là siêu nhân cả, nhưng vì con, những người mẹ sẽ làm được những điều mà bản thân họ cũng không ngờ được”.
Nhà tôi ở giữa cánh đồng, phía trên đó chừng bốn mươi cây số là hệ thống thủy lợi Đồng Cam, huyết mạch của nông nghiệp tỉnh nhà. Nhờ Đồng Cam mà dân quê tôi có hai vụ lúa mỗi năm, tránh được cái đói giáp hạt triền miên ngày chưa có nó. Nhưng khốn thay, một ngày nào đó trong cuộc chiến chống Pháp, đối phương đánh sập các cầu máng, làm đứt hệ thống dẫn nước về đồng.
Kết quả đồng ruộng nứt nẻ như chiếc gương khổng lồ bị một nhát búa nện vào, nứt toát. Đập này đâu chỉ đá và xi măng, nó là sự sống của dân làng - những người nông dân héo hon than thở - khi đồng lúa chết khô, người dân lâm cảnh đói khát nặng nề.
MH: VÕ VĂN
Mẹ kể, đó là những ngày kinh hoàng. Nước mắt nông dân có thể thấm ướt những rãnh đất nứt nẻ. Nhưng không thể làm cho cây lúa mọc lên được. Miền Trung, nơi nắng gió khắc nghiệt, mùa mưa dễ lũ, mùa nắng chang chang đốt da cháy thịt nên khó mong làm ruộng ngóng nước Trời. Và như thế, cây lúa xanh non mơn mởn cùng chén cơm trắng, “dẻo thơm muôn phần” chỉ còn là giấc mơ.
Mẹ bùi ngùi nhớ lại, trầm ngâm tới mức nước ở đâu trong mắt cứ chực rịn ra: “Bom đạn trên đầu, đất nứt dưới chân. Mà đâu chỉ mỗi mình, đàn bà cả xóm, mỗi bước chân đi là mỗi bước run, không phải sợ bom đạn mà sợ ngày mai con đói”. Tôi cá ai nghe câu chia sẻ này cũng sẽ ứa lòng chực khóc. Có lẽ, trong cùng cảnh ngộ đói khát, người đàn bà sẽ khổ xác, khổ tâm hơn những nam nhân vì nỗi ám ảnh bát cơm trắng cho con chỉ có trong mơ.
Bầy con tám đứa, cơm trắng đổi sang cơm độn, hết độn sắn khoai tới độn rau cỏ. Còn mẹ, đói thắt ruột thắt gan vẫn đi bươi móc, tìm từng củ sung, củ ráy. Ba tôi kể, đám rau muống dưới nhà, đi làm về mệt bã người, khi cơn đói lên tới đỉnh điểm thì bứt rau muống sống mà nhai cho qua cơn đói. Ôi, những cây rau muống sống chẳng đủ no, đủ sạch, đủ lành nhưng ba mẹ phải ăn để không phạm vào những hạt gạo củ khoai ít ỏi của các con.
Mẹ kể, tới chừng không còn hạt gạo, củ khoai nào nữa thì tới bữa chỉ nồi canh rau. Từ rau muống, rau sâm, rau sam, rau lang, rau dền... mọc trong vườn đến rau dại. Nhưng nồi canh rau “sang chảnh” đó là của các con, phần cơm của ba mẹ là nồi canh nấu từ thân chuối băm nhỏ. Mẹ nói đến thân chuối cũng phải ăn tiết kiệm, băm ra nấu loãng mà húp. Cả chục cây chuối hột sau hè nhưng đâu chỉ mỗi nhà mình, còn bà Ba, bà Bảy già nua trong xóm nữa.
Trời đất, đói tới chết còn nghĩ đến hàng xóm - tôi nói vậy thì mẹ la, chừng nào chết thì chết cả xóm chứ người no, người đói sống sao được. Vậy đấy, xóm tôi một thời không có gạo, dân làng phải ăn những thân cây, lá dại, ăn cả nước mắt - nhưng chưa bao giờ thôi đùm bọc, sẻ chia.
2. Sau này, khi đập được làm lại, cánh đồng bạt ngàn mỗi năm lại hai vụ lúa vàng, nhưng mẹ vẫn rất tằn tiện. Đặc biệt chuyện ăn uống, mẹ nói “miệng ăn núi lở”, tôn chỉ của mẹ là phải để dành, để lúc bệnh đau có chỗ ngó chừng. Đời người, chung quy cũng “làm khi lành, để dành khi đau” thôi. Mẹ chỉ nói vậy chứ không còn lý do nào khác.
Lúc nhỏ mấy chị em tôi hay rằn rực vụ mẹ dè sẻn từng đồng, từng cắc, nhưng sau này phải nai lưng lo cơm áo cho gia đình nhỏ rồi mới hiểu, nếu mẹ không khéo vun vén từng bữa cơm như vậy thì tiền đâu cho bầy con ăn học, hết phổ thông không đi học chữ tiếp cũng đi học nghề chứ không phải bám vào từng hạt gạo rồi phải ăn bữa nay lo bữa mai như ba mẹ.
Nhớ lại hồi đó mà muốn cười, cũng muốn khóc. Nhà tôi có câu nói “huyền thoại” để nhắc về bữa cơm là “một không, một có” - ngôn ngữ của con Út. “Một không” là chén mắm trong (phần của tôi và Út), còn “một có” là chén mắm có ớt - phần của ba mẹ, anh chị. Hôm nào sang hơn thì được ăn “má với cằm”. Là ba tôi nói ngược “mắm với cà”, một tô cà dằm mắm và nồi cơm là xong một bữa cơm mà ai nấy đều no căng. Không chỉ tận dụng nền đất cũ sau khi người ta phá cái kho đi để trồng cà cho đỡ tiền chợ, mà những thứ quanh mình, má đều tận dụng được cho những bữa cơm.
Nhà có cây dừa, còn khuya chị em tôi mới có cái thú uống nước từ “giếng của Trời” rồi lấy muỗng vét sạch cơm dừa non mềm, beo béo, ngọt ngọt mà nhâm nhi. Dừa phải khô mẹ mới ra “chỉ thị” hái, chất thành đống, xử từng trái một. Bạn được ăn món dừa kho chưa? Nghe tôi kể bạn đừng thèm nhé. Mùa mưa lạnh, có món dừa kho khô, chay cháy dưới đáy xoong, ăn với cơm nóng thì ngon nhức mình, nhức mẩy.
Chưa hết đâu, nhà tôi còn những món không đụng hàng như vỏ dưa hấu kho, lưỡi long luộc và chuối chát kho... Ôi, tuổi thơ tôi ám ảnh cái món chuối chát non kho. Nhà có vườn chuối chát sau hè, tới mùa cho quả, má kho chuối chát liên tục. Mùi chuối chát kho, thiệt là không dễ chịu chút nào, con Út đi học về, gặp cả nhà ăn cơm, còn đứng ngoài ngõ nó đã mếu rệu, cảm thán: “Lại chuối chát!”.
Và nó đã từng bị mẹ cho ăn roi vì tội lén lấy dao ra cắt mấy cây chuối non. Nó bụm đít, vừa khóc vừa nói một cách tội nghiệp: “Mẹ đừng kho chuối chát nữa!”. “Tao có phải nhắc lại chuyện nhờ mấy cây chuối chát này mà nhà mình mới đi qua được cơn đói dai dẳng năm nào và mày mới được khóc oa oa không?”, chị Hai nói.
Ăn uống mỗi ngày đơn giản, nếu có món ăn “phá của” (mẹ quan điểm món ăn nào không phải cơm đều tính phá của) mẹ cũng chỉ nấu nồi chè nếp. Chị em tôi có đứa nào thấy chè nếp ngon. Không thấy ngon, nhưng đứa nào cũng thích mê món chè nên ăn hết veo vì nguyên lý “của không ngon đông con cũng hết”. Những bữa cơm giản dị hơn cả giản dị, nhưng mẹ chủ trương các con đều phải cắp sách đến trường. Dù có một buổi học một buổi phụ việc nhà thì cũng không được nghĩ tới chuyện dừng học khi qua lớp 12. Đó là nội quy cấm cãi của mẹ.
Tôi ra đời sau khi mẹ đã dìu cả nhà đi qua nạn đói và chứng kiến cảnh má “khéo co khéo đắp” để các con có cơm no, áo mặc tới trường. Dù thời còn khốn khó, cơm độn sắn khoai hay cơm trắng cá kho, thì có một điều không thay đổi là tới bữa cơm, mẹ đều là người ăn sau cùng. Một trăm bữa cũng như nghìn bữa, lúc nào mẹ cũng cầm chừng, đũa gắp rất chậm, cơm chỉ xới lưng lửng chén...
Chờ cả nhà ăn xong má sẽ bao vét hết. Lúc làm lại giành, khi ăn lại nhịn. Khi đó tôi đã lớn rồi, biết mẹ nhịn cho con nên mạnh dạn “la”: “Thời buổi giờ chỉ sợ giàu thôi chứ đói khát gì mà mẹ cứ giữ thói quen ăn nhịn làm ráng”. Chị nói nhỏ: “Không phải sợ con đói mà nhịn. Đó là bản năng làm mẹ”.
Mấy chị em tôi học hành không cao xa gì nhưng đủ tuổi cũng bắt đầu đi làm, có lương. Hồi còn con gái, mỗi khi nhận lương về chị em đều đưa mẹ, dặn sắm sửa nhà cửa, quần áo và lo ăn uống cho đủ chất. Nhưng mẹ vẫn ăn uống như ngày nào, sẽ cầm tiền đi sắm lần lượt bông tai, dây chuyền, dư nữa sẽ sắm vàng.
Chị em tôi “cằn nhằn” thì mẹ bảo: “Con gái, phải có ít tiền trong người phòng thân”. Thấy mẹ không chịu sửa soạn chuyện ăn uống thì tôi chủ động mua sữa, bánh ngon, trái cây đắt tiền đem về, mẹ la: “Cực chẳng đã, bay mua về nên mẹ phải ăn chớ không thấy ngon lành gì hết! Bữa sau đừng mua nữa, của đắt tiền ăn hết ngon”.
Tôi lại ca cẩm chuyện má cứ ăn uống kham khổ như thời “đồ đá” ngay cả khi đời sống bây giờ đã sang trang rồi, thì mẹ gạt: “Mỗi bữa có cơm trắng, cá kho là sướng hơn tiên rồi”. Chịu thôi, chẳng thể làm gì để mẹ lung lay. Cá kho của má vẫn mặn - cho đỡ tốn cơm như ngày đói. Tôi phải nói đi nói lại chuyện người già không nên ăn mặn sẽ đỡ đau, đỡ bịnh, nhưng má cứ khăng khăng: Ai già chẳng bịnh. Mẹ còn bảo phải kho mặn, kho sém mới ngon.
Chị Hai nói chắc tại cái mùi cá kho đó thơm như mùi của năm tháng cũ mà mẹ không muốn quên và muốn chị em tôi phải đời đời “khắc cốt ghi tâm”, để biết đường “liệu cơm gắp mắm” một đời. Mẹ sâu sắc vậy, mà tôi đã sống ở ngày no rồi quên đi những ngày đói khát của cả một thế hệ...
3. Mẹ dặn chị em tôi: “Mai mốt mẹ mất, đừng cúng linh đình gì hết nghe. Cứ cơm, cá như hồi mẹ còn sống là được. Siêng thì nấu thêm chén chè nếp”. Tôi cười, cười gượng vì lòng đã bật khóc. Trời ơi, ra là mẹ thèm món chè nếp. Cái thèm nhỏ xíu mà mẹ cất cho đến tận cuối đời.
Chỉ một chén chè nếp - thứ ngọt ngào ít ỏi mà có lẽ cả một đời má chưa từng được ăn cho đã miệng, trong khi chị em đứa nào cũng ăn đến ớn rồi chê dẻo, chê ngấy.
NGUYỄN THỊ BÍCH NHÀN
Nguồn Quảng Ngãi : https://baoquangngai.vn/chi-co-the-la-me-60124.htm