Chiến lược khôn ngoan thay vì tự chủ bằng mọi giá

Chiến lược khôn ngoan thay vì tự chủ bằng mọi giá
một ngày trướcBài gốc
Bài học thực tế
Sự phát triển của ngành công nghiệp hiện đại đã cho thấy, lối tư duy cũ với mục tiêu tự cung tự cấp hoàn toàn, đã trở nên lỗi thời và có thể dẫn đến những thất bại đắt giá. Ví dụ như một sản phẩm của ngành hàng không Nhật Bản - chiếc trực thăng Mitsubishi MH2000, được sản xuất trên quy trình tự chủ 100%. Dù sở hữu tính năng kỹ chiến thuật rất tốt, tương đương với các dòng trực thăng nổi tiếng thế giới, nhưng MH2000 chỉ sản xuất được vài chục chiếc trước khi phải ngừng hoàn toàn. Nguyên nhân sâu xa là sự thiếu hụt quy mô thị trường và khả năng cạnh tranh về giá so với các trực thăng nhập khẩu, hoặc một số loại trực thăng khác được gia công, chế tạo trong nước nhưng dựa trên công nghệ nước ngoài.
Thực tế đó cho thấy, công nghiệp hóa hiện đại không còn là việc tự sản xuất quy mô lớn mọi máy móc và công cụ cho nền kinh tế trong nước và xuất khẩu. Tư duy này, nếu áp dụng máy móc, sẽ trở nên vô nghĩa và lãng phí nguồn lực trầm trọng. Các sản phẩm công nghiệp hoàn chỉnh được tạo ra sẽ chỉ đáp ứng nhu cầu nội địa, khó cạnh tranh trên thị trường quốc tế và cuối cùng dẫn đến thua lỗ do doanh số và nhu cầu thị trường trong nước không đủ lớn để bù đắp chi phí đầu tư. Thay vào đó, công nghiệp hóa của chúng ta phải là việc tham gia sâu rộng vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Áp dụng bài học này vào ngành đường sắt Việt Nam - một lĩnh vực đòi hỏi công nghệ cao và vốn đầu tư khổng lồ - việc đặt mục tiêu nội địa hóa 100% là một chiến lược không thực tế và có thể gây tổn thất lớn. Mặc dù đường sắt là hạ tầng xương sống quan trọng, nhưng thị trường đường sắt Việt Nam không đủ rộng để tự sản xuất mọi thứ một cách hiệu quả và cạnh tranh.
Đường sắt đô thị Nhổn - Ga Hà Nội. Ảnh: Phạm Hùng
Hiện tại, tổng chiều dài mạng lưới đường sắt quốc gia Việt Nam chỉ khoảng 3.143km, phần lớn là đường đơn và chưa được điện khí hóa hoàn toàn, chỉ bằng khoảng 2% Trung Quốc; 5% Ấn Độ; 1,5% Mỹ. Trong tương lai, chúng ta có kế hoạch triển khai dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam với chiều dài khoảng 1.541 km; hệ thống ĐSĐT Hà Nội khoảng 616,9km; ĐSĐT tại TP Hồ Chí Minh dự kiến có khoảng 355km. Tổng thị trường xây dựng hạ tầng và mua sắm phương tiện, thiết bị cho toàn hệ thống đường sắt quốc gia, đường sắt cao tốc và ĐSĐT Việt Nam trong giai đoạn tới ước tính lên tới hàng trăm tỷ USD.
Nhưng mặc dù quy mô thị trường có tăng trưởng, việc tự chủ sản xuất toàn bộ đầu máy toa xe, hệ thống tín hiệu, ray thép hay phụ tùng phức tạp với số lượng hạn chế vẫn sẽ đẩy giá thành sản phẩm lên rất cao. Một đầu máy diesel hiện đại có giá từ 3 - 5 triệu USD và một đoàn tàu cao tốc có thể lên tới hàng chục triệu USD. Nếu tự sản xuất với số lượng nhỏ để phục vụ một mạng lưới đang trong giai đoạn phát triển, giá thành mỗi sản phẩm sẽ đội lên rất cao, khó cạnh tranh với các sản phẩm nhập khẩu. Ví dụ, một toa xe khách do Việt Nam tự sản xuất có thể có giá cao hơn đáng kể so với việc nhập khẩu hoặc liên doanh với các nhà sản xuất lớn như CRRC (Trung Quốc) hay Siemens (Đức) vốn đã tối ưu hóa chi phí sản xuất thông qua quy mô và chuỗi cung ứng toàn cầu.
Tập trung vào nội địa hóa
Ngành đường sắt hiện đại đòi hỏi công nghệ rất phức tạp và liên tục đổi mới, đặc biệt là trong các hệ thống tín hiệu, điều khiển và công nghệ vật liệu. Việc theo kịp những tiến bộ này đòi hỏi nguồn lực khổng lồ mà một thị trường nhỏ như Việt Nam khó lòng đáp ứng một cách độc lập.
Ngay cả một số sản phẩm công nghiệp quốc phòng chủ chốt của Việt Nam, dù đã đạt đến trình độ nhất định, vẫn chưa thể sản xuất với quy mô hoàn chỉnh và vẫn phụ thuộc vào chuỗi cung ứng toàn cầu về linh kiện quan trọng. Đòi hỏi tự chủ 100% trong ngành đường sắt, với quy mô và yêu cầu công nghệ phức tạp hơn, sẽ là sự lãng phí tài nguyên và không hiệu quả về mặt kinh tế.
Thay vào đó, chiến lược phù hợp cho ngành đường sắt Việt Nam là tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu, làm chủ những khâu có lợi thế cạnh tranh và giá trị gia tăng cao. Chúng ta nên tập trung vào việc nội địa hóa khâu khai thác, bảo trì và sửa chữa. Việc làm chủ các quy trình này, từ việc bảo dưỡng định kỳ các đầu máy, toa xe đến sửa chữa lớn hệ thống tín hiệu và hạ tầng đường ray, sẽ giúp giảm đáng kể chi phí vận hành, tăng tính chủ động và đảm bảo an toàn cho toàn mạng lưới. Đây là những công việc cần nguồn nhân lực lớn và có thể được đào tạo, chuyển giao công nghệ dễ dàng hơn.
Việt Nam cũng nên đẩy mạnh chuyển giao công nghệ và hợp tác quốc tế với các đối tác hàng đầu thế giới. Chúng ta có thể liên doanh, hợp tác sản xuất một số linh kiện, phụ tùng có tính phổ biến hoặc đặc thù của Việt Nam; hay lắp ráp tại chỗ để giảm chi phí và tiếp thu công nghệ. Chẳng hạn, tập trung sản xuất các vật tư đường sắt như: tà vẹt bê tông, đá dăm, hoặc các bộ phận đơn giản của toa xe, nơi mà lợi thế về nguyên liệu và nhân công có thể phát huy hiệu quả.
Đối với các hệ thống phức tạp hơn như tín hiệu, điều khiển tàu hay chế tạo đầu máy toa xe tốc độ cao, việc hợp tác với các tập đoàn lớn trên thế giới sẽ giúp chúng ta tiếp cận công nghệ tiên tiến mà không phải đầu tư quá lớn ban đầu. Mục tiêu đặt ra là tham gia khoảng 50 - 70% vào chuỗi cung ứng cho đường sắt cao tốc, điều này có nghĩa là tập trung vào các công đoạn có tính khả thi và hiệu quả kinh tế.
Việc đầu tư mạnh mẽ vào đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ là nền tảng vững chắc để tiếp thu công nghệ, vận hành hiệu quả và từng bước tham gia vào các khâu có giá trị gia tăng cao hơn trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành và bảo trì hệ thống đường sắt cũng là một hướng đi chiến lược để tối ưu hóa hiệu quả hoạt động.
Tóm lại, phát triển ngành đường sắt Việt Nam, bao gồm cả đường sắt cao tốc và ĐSĐT trong tương lai, cần một chiến lược khôn ngoan, thực tế và bền vững. Mục tiêu không nên là tự chủ bằng mọi giá mà là làm chủ công nghệ một cách hiệu quả. Bằng cách hội nhập sâu rộng vào chuỗi cung ứng toàn cầu, tập trung vào các khâu có lợi thế và ưu tiên phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, Việt Nam có thể xây dựng một hệ thống đường sắt hiện đại, hoạt động hiệu quả và đóng góp thiết thực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước mà không phải gánh chịu những chi phí khổng lồ và rủi ro đi kèm.
Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước không còn nằm ở việc sở hữu thật nhiều máy móc và cơ sở vật chất công nghiệp, mà nằm ở việc trang bị cho người lao động những kiến thức mới, kỹ năng hiện đại. Những gì chúng ta không làm được hoặc không hiệu quả, chúng ta dựa vào chuỗi cung ứng toàn cầu; những gì chúng ta có thể làm tốt, chúng ta tự chủ.
Chuyên gia giao thông, thạc sĩ Lê Trung Hiếu
Nguồn KTĐT : https://kinhtedothi.vn/chien-luoc-khon-ngoan-thay-vi-tu-chu-bang-moi-gia.732883.html