Chiến thắng Tây Nguyên đã tạo ra một sự đột biến về mặt chiến lược, từ tiến công chiến lược trong chiến cuộc Xuân 1975 phát triển thành tổng tiến công chiến lược, giải phóng miền Nam vào tháng 4-1975 bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Từ Chiến thắng Tây Nguyên, cần nhìn nhận lại những căn nguyên sâu xa và trực tiếp về sự kiện lịch sử vô cùng quan trọng này nhằm góp phần vào việc xây dựng thế trận quốc phòng gắn với an ninh, xây dựng LLVT trong thời kỳ mới: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo đường lối đổi mới của Đảng, lấy phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, gắn kinh tế với quốc phòng, an ninh, bảo đảm sự bền vững của đất nước.
Nhân dân tỉnh Kon Tum mừng Ngày giải phóng, tháng 3-1975. Ảnh tư liệu
1. Do vị trí địa lý, địa chính trị, địa chiến lược, địa quân sự cực kỳ quan trọng nên suốt chiều dài lịch sử, về phía địch luôn đặc biệt quan tâm đến địa bàn chiến lược quan trọng này. Khi đế quốc Mỹ thay thực dân Pháp trực tiếp đưa quân vào xâm lược Việt Nam đã nhanh chóng lần lượt đưa những đơn vị tinh nhuệ nhất vào địa bàn chiến lược Tây Nguyên, nhằm khống chế khu vực Trung Đông Dương, giữ thế cho chiến trường Trung Trung Bộ, nối với chiến trường Trị Thiên ở phía Bắc và chiến trường Nam Trung Bộ ở phía Nam, cùng với chiến trường Trung Hạ Lào và Đông Bắc Campuchia.
Về phía ta, từ đầu đến cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tại đây đã diễn ra nhiều trận đánh, nhiều chiến dịch với thắng lợi vang dội. Đặc biệt, trong chiến cuộc mùa Xuân 1975 đã nổ ra trận quyết chiến chiến lược, với đòn điểm huyệt Buôn Ma Thuột trong Chiến dịch Tây Nguyên. Ta đã tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ Quân đoàn 2, Quân khu 2 ngụy quân Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn Tây Nguyên, thừa thắng giải phóng 3 tỉnh đồng bằng Khu 5. Chiến thắng Tây Nguyên đã phá vỡ hoàn toàn hệ thống thế trận liên hoàn của địch, tạo thế, tạo thời cơ để ta mở tiếp đòn tiến công chiến lược thứ hai giải phóng hoàn toàn Huế, Đà Nẵng, kết thúc đòn tấn công chiến lược quyết định cuối cùng bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước... Có thể nói, nếu không có Chiến thắng Tây Nguyên tháng 3-1975 như đã diễn ra thì chưa chắc có đòn tổng tiến công chiến lược giành thắng lợi vào ngày 30-4-1975.
Từ vị trí địa-chính trị, địa-chiến lược, địa-quân sự của Tây Nguyên, được thể nghiệm trong suốt cuộc chiến tranh giải phóng, cuối cùng, với Chiến dịch Tây Nguyên đã khẳng định, địa bàn Tây Nguyên chiếm một vị trí chiến lược vô cùng quan trọng không chỉ trong chiến tranh giải phóng mà càng quan trọng hơn trong giai đoạn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhận thức rõ ý nghĩa chiến lược quan trọng đó, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng tập trung xây dựng Tây Nguyên ngày một phát triển toàn diện, trước hết là xây dựng về mặt chính trị, chăm lo củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc Tây Nguyên; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, nhất là các dân tộc thiểu số bản địa, đập tan mọi âm mưu chia rẽ dân tộc của các thế lực thù địch trong và ngoài nước. Thực tiễn, Đảng và Nhà nước ra sức xây dựng Tây Nguyên trở thành một trọng điểm về phát triển kinh tế phù hợp với đặc điểm của vùng; đồng thời tập trung xây dựng nền quốc phòng, an ninh vững mạnh, chủ động đập tan mọi mưu mô gây ngòi nổ tại Tây Nguyên; không ngừng nâng cao cảnh giác đối với mọi âm mưu “xâm lược mềm” của các thế lực chống phá bên ngoài lợi dụng thông qua các hoạt động kinh tế-xã hội, bảo đảm cho Tây Nguyên ngày càng phát triển bền vững.
2. Chiến thắng Chiến dịch Tây Nguyên là một tất yếu lịch sử của cuộc chiến tranh giải phóng, một cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; được tích lũy từng bước suốt cuộc kháng chiến trường kỳ với tư tưởng chiến lược tiến công tạo thế và lực ngày một hùng mạnh, làm xoay chuyển thế chiến lược ngày càng có lợi cho ta; dồn sức mạnh của cả nước, của miền Nam và miền Bắc, của các binh đoàn chủ lực cộng với LLVT địa phương, nắm thời cơ để tạo nên Chiến thắng Tây Nguyên như một tất yếu lịch sử mà không thế lực, sức mạnh nào có thể cưỡng lại được, trong đó LLVT giữ vai trò trực tiếp quyết định.
3. Vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trên cơ sở phân tích toàn diện tình hình chung, tình hình địch và ta, nhận rõ thời cơ đã chín muồi, Bộ Chính trị quyết tâm giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976. Quá trình nghiên cứu, phân tích, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương quyết định chọn hướng chiến lược là Tây Nguyên mở màn cho chiến cuộc 1975-1976. Giải phóng Tây Nguyên, một địa bàn vô cùng quan trọng về mặt chiến lược, sẽ làm rung chuyển toàn bộ chiến trường miền Nam. Trên cơ sở quyết định chọn hướng chiến lược Tây Nguyên, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh đã phân tích toàn diện tình hình Tây Nguyên, xác định chọn Buôn Ma Thuột làm trận then chốt quyết định, một đòn hiểm đánh vào chỗ sơ hở, điểm yếu của địch, nhưng lại là mục tiêu hiểm yếu, là trung tâm chính trị của Tây Nguyên. Đập tan Buôn Ma Thuột sẽ làm rung chuyển toàn bộ Tây Nguyên, đồng thời từ đó có thể phát triển xuống đồng bằng Khu 5 và vào Nam Bộ.
Để thực hiện bằng được quyết tâm chiến lược đó, Bộ Chính trị, Bộ Tổng Tư lệnh đã đầu tư nhân lực, vật lực tăng cường cho Mặt trận Tây Nguyên. Bộ Tổng Tư lệnh tổ chức tiền phương Bộ Tổng Tư lệnh bên cạnh Bộ tư lệnh chiến dịch, do Đại tướng Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam làm Tư lệnh tiền phương. Đây chính là một trong những nguyên nhân chủ yếu trực tiếp đưa Chiến dịch Tây Nguyên đến toàn thắng, trên cơ sở đó, Bộ Chính trị hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong năm 1975. Đây là bài học lớn nhất rút ra từ Chiến thắng Tây Nguyên.
4. Chiến dịch Tây Nguyên cũng thực hiện một cách sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về nghệ thuật quân sự Việt Nam, từ cấp chiến lược đến cấp chiến dịch. Lực lượng địch toàn miền Nam hiện còn rất mạnh, lực lượng Quân khu 2, Quân đoàn 2 vẫn còn nguyên vẹn. Nhưng về nghệ thuật, ta đã bố trí một thế đánh hiểm, trói địch lại trên các hướng để ta tập trung đánh địch và đẩy địch vào thế hoàn toàn bị cô lập, lực lượng mỏng yếu, ít có khả năng chi viện lớn khi bị tiến công. Về chiến lược, Bộ Tổng Tư lệnh đã có kế hoạch dùng lực lượng mạnh kìm chân địch trên hai hướng: Từ Thừa Thiên Huế ở phía Bắc và từ Sài Gòn ở phía Nam. Tại chiến trường Tây Nguyên, ta dùng các sư đoàn, trung đoàn mạnh chia cắt địch, khống chế, đánh chiếm toàn bộ trục đường địch có thể cơ động để tăng viện cho Buôn Ma Thuột và khống chế các sân bay, không cho máy bay phản lực và cánh quạt của địch cất cánh, hạ cánh. Một điểm nổi bật nữa của chiến dịch là ta đã sử dụng một hệ thống biện pháp nghi binh đánh lừa địch, khiến chúng phạm sai lầm khi xác định hướng tiến công của ta. Có thể nói, với nghệ thuật quân sự nghi binh đánh lừa địch thì nghệ thuật trói chân địch theo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh về “mưu kế và thế trận” đã tạo một nét đặc sắc trong vận dụng nghệ thuật quân sự Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
5. Cùng với tài năng của cấp chiến lược, chiến dịch là vai trò chỉ huy chiến đấu sáng tạo của người chỉ huy các cấp và tinh thần quả cảm, mưu trí của từng đơn vị từ cấp sư đoàn, phân đội đến từng cán bộ, chiến sĩ; chỉ huy và chiến đấu với tinh thần quyết tâm chiến thắng, chủ động trong mọi tình huống, biết nắm bắt thời cơ phát triển thắng lợi vượt ra ngoài nhiệm vụ được giao, tạo thế cho nhau, hiệp đồng tác chiến chặt chẽ nên khi thời cơ được tạo ra đã nhanh chóng chớp thời cơ phát triển thắng lợi vượt xa phạm vi nhiệm vụ ban đầu của chiến dịch: Giải phóng một phần Tây Nguyên; chủ động tiến công phát triển đánh chiếm toàn bộ Tây Nguyên và hơn nữa đã vượt ra ngoài phạm vi Tây Nguyên, phát triển cùng các lực lượng địa phương giải phóng hoàn toàn 3 tỉnh ven biển Khu 5: Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, tạo ra bước ngoặt chiến lược cho chiến cuộc Xuân 1975. Bài học này, khi tôi thay mặt Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên ra Hà Nội nhận nhiệm vụ chiến dịch, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đã căn dặn: Phải theo dõi, nắm chắc tình hình. Tình hình có thể xảy ra đột biến, phải hết sức chủ động hành động, không chờ lệnh cấp trên; thời cơ có thể diễn ra rất nhanh, không được do dự, chậm trễ. Thực tế đã chứng minh, Bộ tư lệnh chiến dịch đã hành động theo chỉ thị đó.
6. Cuối cùng là vai trò của nhân dân các dân tộc Tây Nguyên, hơn 10 năm ròng (1964-1975) với tinh thần bất khuất đã cùng LLVT vượt qua những năm tháng vô cùng khó khăn, ác liệt, chống chọi với cái đói, bệnh tật hiểm nghèo và sự kìm kẹp, đánh phá ác liệt của địch, nuôi dưỡng, chở che, làm tai mắt cho bộ đội, cùng sát cánh chiến đấu qua từng trận đánh, từng chiến dịch. Có thể nói, tinh thần bất khuất và sự bền gan, vững chí của các dân tộc Tây Nguyên là nguồn cổ vũ lớn đối với LLVT, cùng vượt lên tất cả để chiến thắng.
50 năm nhìn lại, bài học về vị trí chiến lược Tây Nguyên, về quyết tâm và nghệ thuật quân sự Việt Nam trong Chiến dịch Tây Nguyên có giá trị, ý nghĩa sâu sắc cho mọi thời kỳ, mọi giai đoạn cách mạng. Lúc chiến tranh cũng như xây dựng thời bình, phải không ngừng chăm lo xây dựng thế trận của địa bàn chiến lược xung yếu như Tây Nguyên. Đi đôi với xây dựng thế trận chiến lược mới, việc xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại phải luôn quán triệt tư tưởng quân sự của Đảng, của Bác Hồ, nắm vững tư tưởng quân sự, nghệ thuật quân sự độc đáo Việt Nam, xây dựng tinh thần chủ động, sáng tạo, quyết đoán, bảo đảm cho Quân đội sẵn sàng và luôn luôn hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống.
Trung tướng NGUYỄN QUỐC THƯỚC, Nguyên Tham mưu trưởng Chiến dịch Tây Nguyên, nguyên Tư lệnh Quân khu 4
*Mời bạn đọc vào chuyên mục Quốc phòng an ninh xem các tin, bài liên quan.